ÔNG
NĂM
-
Ðể tôi khiêng cho cô, được mà, tôi làm được mà. Hiền
định phụ ông Năm mang thùng thuốc tây vừa lấy ở hãng
ra, nhưng ông không cho. Hiền đành đứng xích sang một bên.
Ông Năm khiêng thùng thuốc mẫu để lên xích-lô, nơi để
chân. Hiền là trình dược viên. Hàng tuần vào sáng thứ
bẩy nàng đến hãng lấy thuốc mẫu, sau buổi họp cuối
tuần làm tổng kết công việc trong tuần, giới thiệu
thuốc nơi các phòng mạch tư của bác sĩ hay các bệnh
viện và tiệm thuốc tây trong khu vực Hiền chịu trách
nhiệm. Xếp
ngay ngắn thùng thuốc to khá nặng, đẩy chút xíu sang một
bên để Hiền còn chỗ để chân, ông Năm giữ chiếc xe cho
khỏi chúi ra đằng trước rồi nói : - Cô lên đi.
- Ðược không đó ông Năm hay để tôi đi xe khác ?
-
Ðược mà, được mà, có gì đâu, cô nhẹ hều mà. Ông
Năm cưới toét miệng che vẻ bẽn lẽn vì lời khen kín đáo
của mình. Hiền cũng cười rồi nhẹ nhàng vén tà áo dài bước
lên xe. Luôn luôn ông Năm chịu khó thay riêng cho Hiền bao
nệm xe. Bao được giặt sạch, là ủi cẩn thận. Ông hãnh
diện khoe với Hiền : - Bà xã tôi giặt sạch và ủi đàng hoàng để dành cho cô dùng
đó, chừng nào đến đón cô
tôi mới lấy ra xài đấy.
- Cảm ơn ông Năm, nhờ ông cám ơn bà Năm hộ nhé. Ông bà cẩn
thận quá, lúc nào xe cũng được giữ sạch sẽ cho tôi. Ông
Năm hớn hở vì được khen, ông rướn mình đạp một cách
nhanh nhẹn. Người ông roi rói, lưng hơi cong, da sạm nâu, tóc
đã muối tiêu và thưa. Ông Năm đạp xe xích-lô tháng cho
Hiền, ngoài thì giờ đạp xe ăn theo cuốc. Mỗi sáng và
mỗi chiều đúng giờ hẹn, ông đến chở Hiền đi trình
thuốc. Những khi Hiền ngồi đợi bác sĩ trong phòng mạch
hay trong bệnh viện , thì ông Năm gác xe ở bóng mát tàn cây
ven đường, ngồi bệt dưới đầt hay vỉa hè mà đợi,
đôi khi ông ngồi ở ghế công viên trong bệnh viện. Hiền
nói ông cứ ngồi lên xe trong lúc đợi nàng nhưng ông nhất
định không chịu, chỉ muốn dành cho Hiền cái nệm trắng
phau. Những ngày nắng, chẳng cần nhắc, ông đã chu đáo kéo
mui xe ra. Những ngày mưa, ông lại cẩn thận che cả hai bên
cánh gà và ghé xe sát vào tận cửa phòng mạch cho Hiền đỡ
ướt. Hôm nào trên đường về vào lúc hơn tám giờ
chiều, trời tốt gió mát, ông lại xếp mui xuống. -
Trời tốt quá hả cô? Ðể tôi bỏ mui ra cho mát. Trời đẹp
quá không hưởng uổng lắm đó. Ông
tươi cười vừa đạp xe vừa nói chuyện lung tung, chuyện
nhà cửa vợ con ông, chuyện thời tiết, chuyện chính trị
nữa. Ông hãnh diện khoe con trai duy nhất của ông bà đang
học khoá sĩ quan Thủ Ðức, nay mai sẽ ra chuẩn úy. Hiền
nghe giọng ông có lúc hơi nghẹn ngào, chắc ông đang rớm nước
mắt khi nghĩ đến những hy sinh hết mình cho con trai ăn
học hết trung học. Ông mừng gần xỉu khi nghe con thi đậu
tú tài. Nhưng ông hơi buồn con trai đã tình nguyện vào quân
đội trong khi vì là con một có thể được hoãn dịch và
trong khi có thể học lên cao nữa.
- Thật là tréo cẳng ngỗng, cô xem, người ta chạy đông chạy tây
để trốn quân dịch, thằng con tôi lại tình nguyện. Nó
sắp tốt nghiệp sĩ quan, thật tình tôi mừng thì mừng đấy,
nhưng mà lo cô ạ. Bây
giờ ông lại cầu Trời cho con ông không phải đổi đi xa,
nhất là những vùng xôi đậu, chiến tranh dữ dằn. Ông
chỉ có Thành là con trai, ông còn một cô con gái, chị của
Thành, chưa lấy ai. - Vì nghèo quá cô Hiền ơi, ai mà thèm.
-
Tại chưa phải duyên phải số đấy thôi, ông Năm ơi, cô
Hiếu cũng dễ thương đấy chứ, lại giỏi nữa.
-
Vâng, cháu nó cũng chịu khó lắm, mẹ nó cũng đe nẹt ghê
lắm đó.
Loanh
quanh đủ thứ chuyện rồi lan man đến chuyện chính trị.
Ông Năm lên giọng chê vài anh dân biểu chỉ biết biểu dân
làm này làm nọ thì đúng hơn, hay khen ông thượng nghị sĩ
nào đó dám nói dám làm, hoặc tấm tắc khen ông tướng nào
đó nổi tiếng thanh liêm, trong sạch. Cuối cùng lại vòng
về chuyện sợ con trai phải đi xa, phải đi đánh Việt
Cộng ở nơi đầu núi chóp ghềnh. Ông nhắc đi nhắc lại
rằng ông đã chạy vào Nam tránh cộng sản, bỏ cả ruộng
vườn mồ mả cha ông vào đây làm lại cuộc đời, lấy
vợ người Nam, chỉ có được hai đứa con, một gái một
trai, nếu con trai ông có mệnh hệ nào thì ông không còn gì
nữa cả, coi mất tất cả vì tay cộng sản. Hôm
Thành tốt nghiệp sĩ quan Thủ Ðức, ngày mãn khoá nhà ông
Năm mở tiệc khoản đãi bà con bạn bè, nên ông Naà'e1m báo
cho Hiền biết sẽ nghỉ ba ngày liền, không đưa Hiền đi làm
được. Ông cười hớn hở : - Cô thông cảm giùm tôi nghe cô Hiền, kỳ này tôi nhậu cho đã
đời, mừng quá cô ơi. Tôi không phải dân nhậu nên thế nào
cũng nằm mọp, dù hôm sau có muốn đưa cô đi làm cũng khó
lòng lắm, cô thông cảm nghe.
- Mừng ông bà và cậu Thành nhé, nhưng mà đừng nhậu quá, hết
ba ngày cũng không dậy nổi là khổ tôi lắm nghe ông Năm.
-
Ðược, được, cô đừng lo, nói vậy chứ tôi cũng không
uống được nhiều đâu, già rồi, cái bao tử nó hay làm eo
lắm.
Xui
cho ông Năm, cái mừng con trai ra sĩ quan chưa phai, ông Năm
được Thành báo tin phải ra tận Quảng Trị. Hôm
đến đón Hiền đi làm, thấy ông như người bịnh nặng.
Mặt ông tái ngắt, hai mắt chõm sâu, râu mọc lởm chởm.
Hiền hết hồn hỏi : - Ông Năm sao thế, bịnh đấy à? Sao không nghỉ đi? Hay tại
nhậu quá chứ gì? Ðể tôi đi xe khác cho ông về nghỉ nhé? Ông
mếu máo gần khóc, mắt đỏ hoe : - Không, không tôi đạp được mà, không phải nhậu cô ơi,
thằng Thành con tôi nó phải ra tận Quảng Trị cô ơi. Nó
đi hôm qua rồi. Má nó khóc làm tôi cũng chịu không nổi.
Cả đêm thú thật với cô, tôi không nhắm mắt được
nữa, lo quá cô ạ! Thật ra nó đã biết trước rồi, nhưng
nó có hiếu, không cho vợ chồng tôi biết, sợ tụi tôi
buồn ngay hôm nó mãn khoá về nhà, đợi tới hôm qua nó
mới nói ra trước khi đi.
Giọng
ông đổi sang hậm hực : - Mấy ông lớn ngồi trên thật là bất công với tôi quá, tôi có
một thằng con thôi, nó đã tình nguyện đi lính mà vẫn còn
đầy nó ra tận đấy, xích lô như tôi tiền đâu mà chạy
chọt cho con ngồi văn phòng hả cô?
Hiền
không biết nói sao. Quả thật ông Năm xui xẻo. Nhưng không
phải ai cũng chạy chọt như ông nghĩ trong cơn thương cảm.
Hiền chỉ biết an ủi qua loa vì không biết cắt nghĩa thế
nào cho ông hiểu. Vì chiến tranh càng lúc càng dữ dội thì
càng cần nhân lực. Nhưng nói thế lại càng làm ông hoảng
vì như vậy là khẳng định con ông ra mặt trận và đang
ở nơi thập tử nhất sinh. Cả
buổi ông Năm uể oải đạp xe, ông im lìm chẳng nói
chuyện nữa.
Từ ngày Thành ra Quảng Trị, ông theo dõi tin chiến
sự rất sát. Ông kể nhiều tin đọc trên báo, nghe trên đài
phát thanh và bàn bạc như một chính trị gia. Ông đã hồi
phục tinh thần phần nào vì nhận được tin con khá đều.
Tuy nhiên, Hiền vẫn nhận thấy ông có gầy đi, hom hem hơn
và dáng ông già hơn. Ðến
một hôm lại thấy ông tươi rói, Hiền hỏi : - Có gì mà ông Năm tươi thế? Cậu Thành về phép hay sao? - Chưa, nó chưa về lần nào cô ơi, cả năm rồi, tôi cũng mong
quá. Nhưng mà có chuyện khác, xin nói để cô mừng cho chúng
tôi, con Hiếu sắp lấy chồng. Chồng nó cũng là lính cô
ạ, thằng đó là trung sĩ công binh.
- Thế à? Mừng cho ông bà và cô Hiếu nghe. Thế lấy nhau rồi
hai vợ chồng có ở gần ông bà không ?
- Không cô ơi, tụi nó dắt nhau đi mất đất, lính mà cô. Nhưng
mà thôi, con Hiếu có chồng là tụi tôi mừng rồi. Cũng
tội nó, con nhà nghèo mà. Thôi nay thì cũng chồng cũng con.
Ông
nén thở dài rồi tiếp : - Nhà tôi như vậy con trai con rể là lính hết.
- Thì thanh niên thời này như thế cả, biết làm sao bây giờ, ông
Năm. Ðám
cưới Hiếu, ông Năm chỉ nghỉ có hai ngày. Hiền đùa : - Ông không nhậu bằng hôm cậu Thành mãn khoá nên không cần
nghỉ lâu hả ông Năm? Ông có vẻ thiên vị đấy nhé! Ông
cười vui. Nhờ
con gái yên bề gia thất, ông năm đỡ buồn rầu, nhưng
lại càng theo rõi tin chiến sự hơn nữa vì con trai và con
rể đều là nhà binh. Có lần ở phòng mạch ra Hiền thấy
ông ngồi dựa lưng vào gốc me ven đường, tai áp vào cái
radio nhỏ chạy pin, chắc chắn ông đang nghe tin tức chiến
trường. Hiền đi chậm lại, ngần ngừ một chút, đáng
lẽ ra xe ngay, nhưng rồi rẽ vào tiệm thuốc gần phòng
mạch để hỏi về mức bán của thuốc mình trình bầy và
xem nhà thuốc có đặt mua gì không. Hiền cố tình chần
chừ để ông Năm nghe xong phần tin tức. Ðúng
như Hiền đoán, vừa thấy Hiền ông Năm đã nói : -
Trời ơi, cô ơi, đánh lớn lắm ở ngoài Trung cô ạ, thằng Thành
nhà tôi không biết ra sao. Còn thằng chồng con Hiếu ở Long
An, tôi mới nghe, cũng không yên cô ạ. Mỹ đòi rút quân
về, bỏ thí cho lính mình đánh giặc một mình. Một chống
với hai, với ba, nào Nga, nào Tầu, nào cộng sản ngoài
Bắc, cộng sản trong Nam. Ðúng là tứ bề thọ địch. Cô
bảo có thương lính mình không cơ chứ?
Ông
ngao ngán lắc đầu, uể oải đứng lên. Trong khi đạp xe ông
thao thao kể chuyện chiến sự. Chửi Mỹ bỏ cuộc vì không
còn lợi lộc gì nữa, « vớ phải cái thứ phản thùng
», chửi chính phủ có nhiều kẻ tham nhũng khiến đất nước
suy yếu, « chỉ ăn trên ngồi trốc, rồi sống chết
mặc dân », chửi cộng sản tham tàn, cố chiếm cho
được miền Nam để xích hóa phần đất còn lại, « cái
thứ trẻ không tha , già không thương », chửi lũ ăn
cơm quốc gia thờ ma cộng sản là « lũ xanh vỏ đỏ lòng
», chửi lũ cộng sản núp bóng cái gọi là Mặt trận
giải phóng miền Nam, « bàn tay vấy máu nối dàì ».
Cả hai miền Nam Bắc cùng tan nát bởi những người không
xứng đáng. Bao nhiêu tuổi trẻ ở cả hai miền đã và đang
được đem ra làm vật tế thần. Nếu cả hai miền cùng
giữ biên giới, vì lỡ đã có cái hiệp định Giơ-Neo gì
đó, nhất là cộng sản Bắc Việt đừng xâm lấn miền
Nam, ra công xây dựng lại cho vững mạnh phần đất của mình
sau khi thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, rồi
một ngày nào đó, dân cả hai miền được trưng cầu dân
ý một cách thực sự dân chủ, minh bạch, để chọn lựa
thể chế, chính phủ, không tốn một giọt máu, có phải lý
tưởng không? Sẽ tránh cảnh tương tàn anh em chém giết
nhau như đang diễn ra trên cả đất nước này hay không? Dân
cả hai miền không phải khổ đau, tang tóc và lo sợ hồi
hộp từng ngày từng giờ hay không? Ông
Năm nói như diễn thuyết, say sưa, hùng hồn. Ông nói với
tất cả sự chân thành, tha thiết, xuất phát từ đáy lòng.
Mặc dù không thể giản dị như thế, Hiền cũng thấy ông
Năm có lý ở nhiều điểm và thấy chua sót như ông về
sự tương tàn và đổ nát trên quê hương. Niềm chua sót
cộng thêm chua chát khi Hiền thấy một người dân nghèo hèn
trong xã hội như ông Năm xích lô, mà còn ý thức được điều
hay, điều tốt đẹp cho xứ sở, trong khi bọn tự nhận trí
thức, đỉnh cao trí tuệ, ở cả hai miền, đều đang ra công
đập phá tài sản ông cha để lại và làm hao mòn tiềm năng
đất nước bằng cách chém giết, đập vùi tuổi trẻ,
chỉ vì một chủ thuyết không hề phù hợp với bản chất
Việt Nam của dân tộc mình. Ðã bao lần Hiền chứng kiến
cảnh những bà mẹ quê ôm con nheo nhóc ngồi đợi trong
những hành lang dài ở các bệnh viện. Những trẻ em bị thương
tích chiến tranh trở thành phế nhân trước khi giã từ
tuổi thơ, những đôi mắt thơ ngây mở to sợ sệt. Cảnh
những người lính trận bị thương bê bết máu, được
đưa về thành phố, nằm la liệt, cắn răng chịu đựng,
trong các quân y viện. Những bác sĩ, y tá, làm việc ngày đêm,
áo khoác dính đầy máu và mồ hôi đẫm mặt. Chắc chắn
ông Năm đã nhiều lần tự hỏi chừng nào chiến tranh
chấm dứt cho con trai ông về xum họp với vợ chồng ông,
cho con gái ông hết hồi hộp lo sợ cho chồng.
Thời gian qua nhanh, chiến tranh lan rộng một cách rất
đáng ngại.
Ông Năm nửa vui nửa buồn cho Hiền biết con gái ông
vừa ôm con về ở lại nhà ông hôm qua : -
Dưới đó lộn xộn lắm cô ạ. Chồng con Hiếu bảo nó ôm con
về ở với tụi tôi. Tôi vui vì có cháu ngoại hủ hỉ lúc
tuổi già, bà xã tôi cũng vui lắm, nhưng tội cho con Hiếu
phải sống xa chồng nó. Hơn nữa về đây kiếm việc dễ hơn,
lương lính làm sao đủ sống?
Có
đứa cháu ngoại ở gần, ông Năm như trẻ lại vài tuổi.
Thỉnh thoảng trên đường đưa Hiền đi làm, ông cũng mua
ít quà cho cháu. Có khi Hiền thấy cắm bên hông xe cái chong
chóng bằng giấy đủ mầu. Ông khoe là quà cho bé Liên. Có
khi là cái trống con, có hai cái tai bằng hạt ngọc giả
mầu xanh ve, khi lắc thì kêu tong tong. Ðôi khi Hiền cũng
nhờ ông đem về cho nó vài thứ đồ chơi hay quần áo. Ông
Năm cảm ơn rối rít. Qua hôm sau ông không quên khoe rằng cháu
ngoại của ông mặc rất vừa bộ đồ và nó xinh lắm.
Cuộc đới ông Năm cứ trôi trong cái vui, cái buồn, cái
hồi hộp, cái lo sợ, cái mong chờ hàng ngày như mấy chục
triệu dân miền Nam ngóng trông một ngày sán lạn.
Bỗng một sáng không thấy ông Năm đến đón đi làm.
Hiền đoán chừng ông ốm đau. Qua sáng hôm sau cũng không
thấy lại. Hiền phải đi xe khác. Buổi tối đi làm về,
Hiền thấy một chú xích lô trẻ, rụt rè bấm chuông nhà nàng.
Hoá ra ông Năm nhờ chú đến đưa Hiền đi tạm trong tuần
này vì con rể ông vừa chết, xác được đem về quàn ở
nhà ông. Hiền lặng người vì thương ông Năm. Vội vã thay
áo, nhờ chú chở đến thăm gia đình ông.
Nhà ông ở dưới dốc cầu Trương Minh Giảng, đối
diện chợ. Quanh co trong cái hẻm phía ngoài rộng rãi nhưng
càng vào sâu càng chật chội, lồi lõm và tối om. Ðèn nê-ông
hắt ánh sáng xanh lè yếu ớt trên con ngõ khúc hẹp vanh
vanh. Mái tôn lụp xụp thấp lè tè, gần như chạm vào nhau,
cái cao cái thấp, nhô ra thụt vào như hai hàm răng khểnh. Dây
điện chằng chịt đan vào nhau như mạng nhện phía trên.
Hiền níu chặt sườn xe vì xóc quá. Hiền đã đến
nhà này theo sự yêu cầu của ông Năm, một lần hôm bà Năm
ốm nặng, đến vào ban ngày, giữa hôm trời nắng chang
chang. Mùi cống rãnh và mùi của cái lạch đen thui chẩy
gần đó, tanh nồng, theo gió lùa vào ngõ hẹp. Trẻ con đứa
ở trần, đứa ở truồng, chạy lông nhông khắp xóm, đứa
chơi tạt ống lon la ó om xòm, đứa bé hơn đứng ưỡn
bụng ỏng ra xem, mũi dãi tèm lem, ruồi bu đen cả mặt.
Lần này là lần thứ hai Hiền đến nhà ông, nhưng vào
buổi tối. Radio và truyền hình mỗi nhà thi nhau vặn thật
lớn. Có nhà tụ họp hơn cả chục người, ngồi ngay bệ
cửa ra vào, choán một nửa bề ngang ngõ, ngóng cổ nhướng
mắt xem chung một vở tuồng cải lương trên truyền hình,
giọng vọng cổ ai oán, thê lương lẫn vào tiếng người bàn
tán ồn ào về vở tuồng và diễn viên.
Tuy trời đã tối, nhưng gió vẫn còn nóng hầm hập,
làm như cơn mưa to chỉ trực sập xuống. Mới gần đến nhà
ông Năm đã thấy lố nhố nhiều người bu đầy cửa và láo
nháo cả phiá trong. Tiếng bà Năm và Hiếu khóc thảm
thiết. Hiếu nằm vật ra đất, khăn tang trắng vấn tóc xô
lệch, người nhũn ra vì đau thương. Bé Liên lồm cồm bò bên
mẹ, mếu máo hết nhìn người này lại nhìn người kia. Bà
Năm cũng rũ rượi ngồi khóc trên cái phản độc nhất
trong nhà. Ông Năm sớ rớ bên cạnh chiếc quan tài mộc có
bát nhang đang nhả khói tỏa đầy căn nhà thấp và tối,
lập lòe ánh nến. Mùi hương, mùi khói, mùi nến, mùi ẩm
mốc sặc sụa đến cay mắt. trên nắp quan tài, sau bát
nhang tấm ảnh của chồng cô Hiếu dựng đó, bơ vơ. Ảnh
chụp đã lâu, có lẽ lúc anh vừa được làm trung sĩ, mặt
còn trẻ măng và ánh mắt còn tươi.
Ông Năm thấy Hiền đến, vội vã chạy ra, gạt đám
bà con, hàng xóm qua bên, ông mếu máo kể về cái chết
của con rể. Anh đã anh dũng hy sinh cho tổ quốc lúc anh thi
hành công tác công binh tạo tác ở gần Long An. Mìn nổ và
anh chết tại chỗ. |