CHỊ
TÔI
Ðối
với tôi, sau mẹ tôi thì chị tôi là người đàn bà tuyệt
diệu thứ hai. Nếu ai có bảo đúng là mẹ hát con khen hay
thì cũng cứ việc. Tôi vẫn khẳng định như vậy. Nhớ
hồi xa xưa còn học lớp ba lớp tư, cô giáo bắt tả một
người. Tôi làm một bài luận ngắn ngủi như sau :
« Chị tôi có khuôn mặt trái xoan, có đôi mắt
to sáng long lanh, có nụ cười thật tươi, có cái răng
khểnh, có làn da mát rượi và thơm như hoa chanh. » Ðể
kết luận tôi xuống hàng, bỏ cách một dòng, rồi viết :
« Tôi yêu chị tôi rất nhiều ». Tôi chấm
hết bằng một dấu chấm, một gạch chéo và một dấu
chấm nữa, đúng như cô giáo đã dặn khi viết xong mỗi bài
chính tả hay mỗi bài luận văn.
Cho đến bây giờ, khi đầu đã hai thứ tóc, tôi vẫn
thấy bài luận tuy cụt lủn của tôi vẫn tả được hết
và đúng hình dáng chị tôi, đồng thời nói lên nỗi lòng
tôi yêu chị , yêu một cách khẳng định và càng theo thời
gian, tình yêu ấy càng mãnh liệt, đậm đà, sâu sắc hơn. Bố tôi người làng Bạch Mai, ngoại ô Hà Nội. Mẹ tôi là con gái Hàng Cau, một trong ba mươi sáu phố phường của thủ đô văn hiến. Chị tôi sinh ra ở Hà Nội, nhưng tôi lại sinh ra ở Hải Phòng, khi bố tôi đổi xuống đây làm việc.
Gần
Hải Phòng có bãi biển Ðồ Sơn, cát mịn và rủ bóng thùy
dương. Khi mang tôi trong bụng, hẳn bố mẹ tôi hay ra đấy
tắm biển và ngoạn cảnh và có lẽ ở đấy bố mẹ đã
chọn tên cho tôi. -
Cũng tại bố mợ đặt tên cô là Biển Mây nên,
gớm, từ lúc lọt lòng, cô khóc ơi là khóc. Cứ nhè ban đêm
là cô tỉnh dậy, khóc ra rả suốt đêm. Ban ngày thì cô
quay ra ngủ mới ác chứ. Chị
tôi cười hiền dịu trách móc. -
Cô ấy khóc dạ đề đấy. Mợ tôi giảng. Các cụ ngày
xưa bảo rằng hễ khóc dạ đề như vậy thì cứ từ lúc sơ
sinh kéo qua ba tháng mới hết. -
Thế thì đúng quá rồi mợ nhỉ? Cô ấy khóc suốt
mấy tháng chứ ít đâu. -
Tôi
phục bố các cô. Mợ lại tiếp. Bố các cô là người
chồng, người cha kiên nhẫn nhất trên đời. Tối nào cũng
vậy, khi con khóc thì bố các cô bế cô này, vác lên vai,
chỉ một tay thôi mà gọn gàng đâu ra đấy, tay kia cầm
quyển sách, cứ đi qua đi lại trong nhà, vừa dỗ con vừa
học. Thời đó bố các cô dù có vợ, có con rồi mà vẫn
học, để lên ngạch. Tôi phục ông ấy. Con cứ ra rả bên
tai, mà ông ấy cứ điềm tĩnh như không, đi qua đi lại,
vừa rung con vừa đọc sách. -
Cô có biết là cô khóc dai và nhiều đến nỗi cậu
T. đến chơi, cậu ấy đùa bảo sao không cho quách bà sơ
cho xong. Chị tôi lại tiếp lời trong tiếng cười ròn rã.
Giá mà bố mợ nghe cậu ấy thì bây giờ cô là con bà sơ
rồi. Khi
chị cười, cái răng khểnh lộ ra. Duyên ơi là duyên. Mẹ tôi
trêu : -
Ờ, đáng lẽ cho bà sơ rồi đấy. Nhưng cô có được
ông bố đặc biệt nên đời nào ông ấy đem cho, trái lại
cô còn được bố cô cưng nhất nhà đấy, cô biết không
? -
Này kể cho cô
nghe, cái hồi nhà mình ở ÐaKao trong Saigon, lúc cô mới có
mấy tháng thì nhà mình đổi vào Saigon ở. Cô sướng như
tiên. Bố mợ mua cho cô cái xe nôi có bánh xe to cao, không
phải xe lùn tịt vẫn thường thấy đâu. Lại nuôi một
chị vú, chị Xuân ấy, chỉ riêng trông coi cô thôi, nên
suốt ngày chị ấy lo cho cô, lúc nào cô cũng thơm phức mùi
phấn, tã lót toàn mua ở hiệu cả. Chị ấy đẩy xe đưa cô
đi chơi quanh phố. Còn tôi cứ phải đi bộ bên cạnh. Cái
ông bà Tây ở gần nhà, mỗi lần thấy chị em mình đi
dạo lại ra đón ngắm cô. Rồi cô lớn lên thì chị Xuân
nghỉ việc. Lúc đó chiến tranh Việt-Pháp bắt đầu nổ
lớn. Mỗi khi bom đạn ầm ầm thì cô lại ré lên. Rồi
lại phải chui vào tăng-xê nữa chứ, mà cô cứ khóc toáng,
khổ ơi là khổ. Cô có biết bổn phận tôi là gì không ?
Mỗi khi như vậy tôi phải nhớ ôm theo cái bình nước và
hộp bánh bích quy đem vào tăng-xê cho cô. Quên là khổ với
cô đấy. -
Ðúng
thế, chị cô yêu cô lắm đấy và cũng chật vật vì cô không
ít lúc cô còn nhỏ. Ai lại tai ác thế cơ chứ. Mợ
tôi dịu dàng trách móc. Ðột
nhiên chị tôi cười ngất không nói tiùếp được. Chị đang
nghĩ đến việc gì nên còn lo cười. Mãi một lúc mới
tiếp nổi. Buồn
cười, chị có
tật hay bắt đầu câu chuyện bằng hai chữ đó, nên nhiều
khi bố tôi hóm hỉnh trêu chị. Khi thấy chị dợm nói, bố
đã giáo đầu trước buồn cười, thế là chị
cười ngất. -
Buồn cười, mợ có
nhớ cô ấy lúc ba tuổi không nhỉ? Cô ấy ra cái điều giúp
quét nhà. Người thì lùn xủn, cái chổi còn dài hơn cả người,
thế mà cũng đòi quét. Rác chỗ này cô tha ra chỗ khác, còn
chết tôi hơn, thế mà hễ bảo cô thôi đừng quét nữa, không
cần nhờ đâu, thế là cô lẫy. Cô mà dỗi thì thôi, khóc
hết nước mắt. Lúc đầu cô còn khóc trong xó nhà, sau mãi
chẳng thấy ai để ý, cô mò ra trước mặt người ta mà khóc.
Cứ ròng ròng đứng bên cạnh mà nỉ non. Thật là cả một
sự đau khổ tàn nhẫn vô nhân đạo cho tôi.
Vuốt ve dỗ cho cô nín thì cô lại tủi thân khóc nhiều hơn
nữa mà lờ đi thì cô cũng tủi thân lại cũng khóc mùi
mẫn. Tôi chẳng biết phải làm sao. Ðến nỗi cả họ đặt
tên cô là cô Tư Nhè, cô biết không? Những
kỷ niệm thời tôi còn nhỏ được mợ và chị tôi lâu lâu
kể lại với tất cả sự trìu mến yêu thương. Tôi chỉ
biết lặng lẽ ngồi nghe mà thấy lòng mình ấm áp, lặng
lẽ ngắm hai khuôn mặt có rất nhiều nét giống nhau của
mợ và chị tôi. Hai khuôn mặt hiền từ, phúc hậu và duyên
dáng. Có khi bắt đầu câu chuyện ở lúc tôi mới lọt lòng.
Có khi bắt đầu ở chặng gia đình tôi bỏ Saigon ra Bắc vì
trong Nam đánh lớn, cuối năm 1944 đầu năm 1945. -
Suốt dọc đường từ
Nam ra Bắc, đến đâu mợ đi thăm thai đến đấy vì mợ có
bầu lớn rồi mợ nhỉ? Ra đến Hải Phòng thì phải lấy
xe lửa để lên Hà Nội. Ðến Hải Dương phải đổi xe. Người
ta đông như kiến ở nhà ga, trời thì tối. Mợ thì bầu
to, cô thì nhỏ. Bố mợ giao cho tôi đồ đạc. Dặn tôi
cứ ngồi trên cái vali và ngồi yên đó, để bố chạy đi
tìm một toa xe còn chỗ trống cho mợ và cô. Tôi sợ muốn
chết mà vẫn phải gồng mình ngồi lại sân ga vừa tối
vừa đông. Tôi còn nhớ tôi cứ ngồi ôm khư khư cái phích
nước của cô. Ði đâu cô cũng được tôi phục vụ chu đáo. Chị
lại cười. Cái răng khểnh của chị làm nụ cười thêm
duyên dáng. Gia
đình tôi trở lại Hà Nội đúng lúc nạn đói năm Ất
Dậu đang hoành hành. Người chết như rạ. Cứ sáng tinh sương,
có chiếc xe bò đi nhặt xác, lọc cọc qua các đường
phố. Nhiều khi vừa mở cánh cửa nhà cũng có xác người
nằm chết dựa vào phía ngoài cửa. Cái xác đổ xuống bên
cạnh, gục xuống vỉa hè. Hà Nội tang thương chưa từng
thấy. Kinh hoàng lắm, chị tôi nói thế, nét sợ hãi thoáng
trên mặt. Có khi chị bắt đầu chuyện từ khi chúng tôi
chạy tản cư. Tôi được bỏ ngồi trong thúng cùng với em
trai tôi mới sinh ra đời ở Hà Nội, sau chuyến di tản từ
Nam ra Bắc. Chị tôi lẽo đẽo chạy bên cạnh đôi thúng
thuê người gánh. Khi tôi lớn hơn tí nữa thì chị nắm tay
tôi chạy loạn, còn em tôi được bố cõng. Chị nhắc cho tôi
nhớ cái áo dài bông mầu đỏ có tay áo bên phải bóng láng
vì nước mắt, nước mũi của tôi hay được chùi vào đấy,
nhiều đến nỗi chỗ đó đóng thành một tảng cứng như
áo giáp. Những lần kể chuyện như vậy, chị chỉ nhắc đến
tôi, không kể gì về chị nhiều. Qua chuyện của tôi, tôi
biết được phần nào về chị mà thôi. Thảng hoặc lắm
chị mới nói về chị như hồi ở Thái Bình. Nhà trọ có vườn
dâu nuôi tầm. Chị đã học luộc kén, gỡ tơ và dệt tơ
rồi đem ra chợ bán. Những cúi tơ óng mịn, mầu vàng
nhạt được đặt cẩn thận trong cái thúng lót vải. Chị
đã ôm ra chợ mời chào, nhưng chỉ mời những cúi mịn.
Những ai không chuyên môn định lấy những cúi xấu, tơ
dệt bị đứt nên hay có mấu nối, thì chị thật thà bảo
người ta đừng mua. Chính chị lựa cho người ta cúi đẹp.
Có ai trách chị sao thật thà đến thế, thì chị chỉ cười,
không nói. Nụ cười thật hiền. Ngày
tháng trôi qua. Chị em chúng tôi sinh ra ở thành thị, nhưng
lại lớn lên ở thôn dã. Mộc mạc như những cánh hoa đồng
nội, trong sạch như đọt lúa mới đâm đòng đòng. Thuở
thiếu thời bồng bềnh như những thân gỗ thả trôi về xuôi
trên dòng sông Mã, nhấp nhô dưới ánh nắng ban trưa. Bồng
bềnh như những con thuyền đinh chở hàng từ thượng du xuôi
về kinh, trong ánh trăng váng đêm rằm. Trên sông rộng, mang
mang tiếng hò nhặt khoan và tiếng mái chèo gõ nhịp vào
mạn thuyền. Nơi đây, bên bờ sông lịch sử, hai bờ sông đá
lởm chởm, cỏ cây mọc chen nhau, dòng sông sâu hun hút phiá
dưới. Sau này giờ Việt văn, có câu thơ của bà Huyện
Thanh Quan « Cỏ cây chen đá lá chen hoa » làm tôi
nhớ ngay đến bờ sông cũ. Cảnh sông vừa hùng vĩ vừa thơ
mộng. Nhưng không phải chỗ nào bờ sông cũng lởm chởm đá,
mà đôi khi trở nên thoai thoải, lộ ra một bãi cát nhỏ. Nước
chảy nhu mì chứ không cuồn cuộn sóng như ở vài khúc khác.ơi
đây, tôi được ngắm chị tôi e lệ kéo cái quần đen lên
đến tận nách, thắt chặt dải rút ở phía trên ngực, hai
vai trần mịn màng, mầu nâu hồng khỏe mạnh của tuổi
dậy thì. Chị bắt chước cách tắm sông của người thôn
quê. Cũng quần đen kéo cao và tóc búi sát gáy. Chị khoan
thai tiến xuống dòng nước trong mát lạnh cho nước ngập
đến cổ mới dừng lại. Còn tôi mới chỉ là con bé con năm
tuổi ham đùa nghịch trên cát hay tinh nghịch té nước dọa
làm ướt tóc chị. Nhưng cũng có lúc tôi ngẩn người ra
ngắm chị khi chị tiến xuống nước hay từ từ nhô người
ra khỏi mặt nước loang loáng nắng chiều. Những giọt nước
đọng trên mầu da nâu hồng của chị. Những lúc đó tôi
thấy chị tôi như nữ thần nước, đẹp tuyệt vời. Rồi
tôi sung sướng chạy theo chị. Hai chị em chui vào bãi ngô bên
cạnh, tôi khúc khích nhìn chị choàng váy qua đầu, thắt dây
rút ở cổ, cái váy được thả dài xuống tận mắt cá chân,
chị cố trút áo quần ướt thay cái khác trong cái váy
chật hẹp đó. Vừa thay hai chị em vừa cười với nhau. Có
khi tôi láu lỉnh giả bộ la hoảng lên như vừa bắt gặp
ai đang nhìn trộm thì chị lại cuống quít thêm và càng lúng
túng trong cái váy chật hẹp. Chị vừa cười vừa sợ,
dọa sẽ đét đít tôi nếu quả thật tôi nói láo. Buổi
tối, sau bữa cơm đạm bạc, trong ánh sáng tù mù một
ngọn đèn dầu, tôi lại có dịp ngắm hai khuôn mặt tuyệt
diệu của tôi, nghiêng nghiêng trên tấm áo đang phải vá
hay trên trang vở học trò nhạt mầu mực tím. Giờ phút
sung sướng nhất trong ngày có lẽ là giờ phút được rúc
vào lòng chị, cảm thấy cánh tay mát rượi của chị quàng
qua người tôi, hơi thở ấm áp tỏa vào gáy tôi và một mùi
thơm như mùi hoa chanh ướp trong khoảng không gian chật hẹp
của cái màn vải sô trắng đục. Nhịp thở đều, nhẹ và
ấm của chị giúp tôi đi vào giấc ngủ một cách dễ dàng. Ở
làng Sét, nhưng hai chị em tôi đi học tận làng Là, cách đó
khoảng bốn năm cây số. Bà ngoại tôi dậy thật sớm, trước
khi gà gáy. Bà lúi húi thổi nồi cơm rồi nắm cơm trong mo
cau, không quên rắc tí muối vừng vào bên cạnh. Có hôm bà
kèm cho củ khoai lang lùi, thơm phưng phức. Cái áo tơi mưa
bằng lá gồi cứng ngắc, ngay đơ, chúng tôi vai khoác
chiếc ghế xếp dùng làm bàn học, cuốn vở nhét vào trong
túi vải, lọ mực tím móc vào ngón tay trỏ, một tay thủ
trong túi áo ủ mo cau ấm hơi cơm nắm tỏa nóng một
khoảng bụng. Chúng tôi co ro đi học. Ðường đê cao hun hút
gió đêm về sáng. Tiếng ếch nhái côn trùng còn ra rả vang
vang trong cõi cô tịch. Bóng tối chưa thật tan nên đôi lúc
còn thấy đom đóm lập lòe trong cỏ ướt ven đê hay bay
chập chờn phía xa, trên những ngôi mả hoang. Vài con châu
chấu hốt hoảng bị đánh thức nhẩy lao xao. Trên đê
vắng hai chị em rù rì trò chuyện. Chúng tôi sợ nhất là
khi đến gần làng Là. Ðầu làng có cái miếu khá to, đổ
nát rêu phong, lù lù trong sương mờ đục. Ở đấy có một
cây si hay cây đa mà quạ cả trăm con đêm đêm về làm
tổ. Chúng tôi thôi không dám nói chuyện, nín thở, rón rén
đi. Cố không cho hai chiếc áo tơi đụng nhau hay xột xoạt
theo bước chân. Nhưng dù cẩn thận đến đâu vẫn đánh
thức được đàn quạ. Chúng hoảng hốt tung bay loạn xạ,
kêu quang quác. Bay xà cả lên nón lên người mình. Những lúc
đó, chị em tôi sợ lắm, rủ nhau ba chân bốn cẳng chạy
thục mạng vào đến tận cổng làng mới dám dừng lại
thở hổn hển. Lúc hết sợ rồi thì chị em tôi lại cười
như nắc nẻ, hú vía không bị quạ mổ. Chúng tôi lớn lên
trong tiếng bom đạn và khói súng, trên hoang tàn đổ nát
của quê hương dưới thời thực dân, cho đến năm 1950,
bố mẹ dắt chúng tôi trở về thành phố cũ. Hà Nội mến
yêu, có Hồ Gươm liễu rủ, có Hồ Tây lộng gíó, có đường
Cổ Ngư nổi tiếng bánh tôm ngon. Một
lần nữa, tôi lại ngẩn ngơ nhìn chiếc khăn quàng cổ bay
bay theo tà áo dài tha thướt chị mặc đi học. Nụ cười có
cái răng khểnh càng thêm duyên dáng. Hiệp
định Genève chia đôi đất nước khiến chị em tôi lại
một lần nữa bôn ba chạy loạn. Tôi ngỡ ngàng nhìn chị tôi
theo bà ngoại và những người Bắc đầu tiên trên hơn
nửa triệu dân miền Bắc di cư, xuống tầu há mồm vào Nam
trước bố mẹ và tôi. Gần một năm sau, tôi vui sướng gặp
lại chị. Tôi ngạc nhiên nhìn chị thay đổi, khác hẳn,
với mái tóc cắt ngắn uốn rợn sóng, nét chì tô đôi
mắt thêm sâu và long lanh, phơn phớt chút sáp hồng trên má
trên môi. Chị tôi đã trở thành thiếu nữ đang xuân rực
rỡ. Chị đi học bằng xe solex. Tà áo dài trắng dắt vào yên
sau, tà trước nắm trong tay để trên ghi-đông, khiến chị
như đang đi trên con thuyền có cánh buồm căng gió. Khi nhìn
chị với vài bạn học đi xe về cùng khu phố chào nhau chia
tay, ríu rít như đàn hạc trắng, tôi lại thấy chị tôi đẹp
quá. Ðã
lâu rồi và vì đã lớn hơn, thêm phần nhà rộng rãi, tôi
tiếc không còn dịp ngủ chung giường với chị nữa, nhưng
vẫn được chung phòng. Có đêm, nằm trong màn, tôi nhìn
sang giường chị thấy chị hay trở mình, có lúc hình như
chị thở dài. Tôi muốn bò sang xin chị cho ngủ chung như trước,
nhưng vì giường
chỉ đủ một người nằm và trời lại nóng nực, hơn
nữa thấy mình đã...lớn, chẳng lẽ còn làm nũng chị, nên
tôi lại bỏ ý định. Nằm trong màn tôi theo dõi. Hình như
chị đang đọc thư. Rất nhiều lần như vậy. Tiếng giấy
mở sột soạt rất nhẹ. Tôi bất chợt nhận ra rằng bây
giờ có rất nhiều cánh thơ gửi cho chị. Có những lá thư
chị thờ ơ đọc, nhưng có những lần chị có vẻ mong ngóng,
đi ra đi vào, đợi chờ thư đến, chộp ngay lấy, mang vào
phòng, đóng cửa lại đọc một mình rồi đợi đêm mang ra
đọc lại trong màn. Trong ý nghĩ con nít của tôi, tôi thấy
thú vị vì sẽ có nhiều dịp trêu chị, làm eo làm sách
với chị, như thời xa xưa vẫn dọa làm ướt tóc chị hay
giả bộ nói có người nhìn trộm chị thay quần áo trong bãi
ngô. Nhưng tôi cũng mơ màng nghĩ chị tôi đã yêu ai rồi, á
à chị có bồ. Ý nghĩ đó làm tôi càng muốn cười.
Tôi phải bụm miệng cho tiếng khúc khích không phát ra to,
để chị không biết là tôi đang biết bí mật
của chị. Tuy đã mười ba, nhưng tôi vẫn rất con nít,
vẫn còn thơ ngây đi rước đèn Trung Thu quanh xóm vào dịp
lễ tháng tám, nên vấn đề yêu đương đối với tôi chỉ
như một chuyện...tiếu lâm. Có đêm tôi ngạc nhiên thấy
chị vừa đọc thư vừa khóc thút thít thật khẽ. Chị sợ
tiếng xịt mũi hay lau nước mắt của chị làm tôi chú ý nên
cố giữ cho khỏi gây tiếng động. Tôi ngạc nhiên không
hiểu tại sao người ta lại có vẻ vừa sung sướng vừa đau
khổ vì thứ tình cảm mà tôi nghe thiên hạ gọi là tình yêu.
Tôi cũng ngạc nhiên và nhiều lần tự hỏi cái tình cảm
đó nó ra làm sao mà khiến chị tôi khi buồn khi vui, khi tươi
như hoa khi sầu thảm lẫn lộn như vậy. Có những chiều
chủ nhật, chị không đi chơi chung với bố mẹ và tôi
nữa. Chị thoái thác lấy cớ bận học, ở nhà. Lại có
khi chị xin phép đi chơi với bạn. Tôi lân la ngồi cạnh
chị bên bàn phấn trong phòng ngủ, nhìn chị trang điểm. Có
khi tôi dành đánh móng tay móng chân cho chị. Thương tôi,
chị để yên cho tôi làm. Nhưng tôi vụng về, lóng ngóng, bôi
tèm lem, chị phải sửa lại, nhưng không gay gắt với tôi
bao giờ. Sửa soạn xong, chị tươi tắn ra đi. Có một lần
duy nhất, nhân thấy chị rảnh rang, nằm đọc sách trong phòng,
tôi giả bộ vào phòng tìm kiếm cái gì để có cớ nói
chuyện với chị. Sau lần đó tôi biết được tên người
chị yêu. Cái tên mà sau lần đó chị vẫn nhắc đến với
tôi với một sự trìu mến chưa bao giơ tôi thấy ở chị,
khác hẳn sự trìu mến chị vẫn dành cho tôi xưa nay. Từ
sau lần mở cửa tâm hồn ra với cô em nhỏ dại và ngây thơ
khờ khạo đó, chị như tìm thấy một người để đi khoe
những đoạn thơ tình tha thiết, những món quà nho nhỏ,
chia sẻ cái vui cái buồn của chị và nhất là để chị
nhắc đến tên người yêu và tâm sự những toan tính tương
lai của hai người. Tôi nhận thấy chị vui nhiều hơn buồn.
Chị yêu và chị được yêu. Như con chim sơn ca, chị hay hát
nho nhỏ những bài ca ngợi tình yêu, những bản tình ca ướt
át. Tôi
hốt hoảng đỡ chị không kịp. Chị ngã vật xuống sàn
gạch. Hai chị em đang làm bếp, chị đang đứng bên hồ nước
trong bếp thì kêu chóng mặt và bất thần ngã xỉu. Tôi la
to kêu bố mẹ vào phụ đưa chị ra nhà ngoài. Ngưới chị
nhũn ra và mặt tái mét. Bố cho người đi mời bác sĩ đến.
Sau khi khám tổng quát, bác sĩ nói cần phải đưa chị vào
bệnh viện. Tôi lo lắng không biết chị bị bệnh gì, chỉ
biết lẽo đẽo theo vào nhà thương.ác sĩ ở bệnh viện báo
một tin mà tôi không muốn tin. Không muốn tin một tí nào vì
tôi nghĩ nếu là sự thật thì Hoá Công quá bất công đối
với chị tôi. Chị tôi đễ thương là thế, chị tôi đẹp
là thế và chị tôi đang yêu đời là thế. Ai nỡ tâm giáng
xuống một thảm họa như thế, bắt chị tôi phải gánh
chịu? Chị tôi bị ung thư máu. Thời gian sống còn không có
gì bảo đảm sẽ kéo dài lâu hơn vài năm. Vào thăm
chị thì tôi nghĩ
rằng chẳng bao giờ tôi quên được nước da tái
xanh, khuôn mặt nhợt nhạt và nhất là ánh mắt buồn thảm
sâu thẳm mênh mang của chị. Tất cả mạch sống như bị
cắt đứt. Chị nằm đó mà tâm hồn chị chắc chắn đang
bay về bên cạnh người chị yêu, cố sống những giây phút
cuối cùng của cuộc đời yêu đương đôi lứa. Chị quay
nhìn tôi thờ thẫn. Tôi chỉ nhìn thấy đáy vực sâu hun hút
trong đôi mắt đen của chị. Ðôi mắt với ánh nhìn hiền
từ, trìu mến. Ðôi mắt mà trong đó đã tắt ngấm nét vui
tươi yêu đời tôi vẫn thấy khi đọc vài đoạn thơ tình
của người yêu cho tôi nghe, hay ánh cười phản chiếu trong
gương khi chị ngồi trang điểm bên cạnh tôi trước bàn
phấn. Rồi thời gian trôi. Ðường đời chia chị em tôi mỗi người mỗi ngả. Chị tôi đã trở về bên giòng sông cũ, làm nữ thần nước như tôi đã tưởng thấy trong lúc xúc động vì vẻ đẹp mộc mạc của chị. Ngày hôm nay, khi viết những dòng này, mắt tôi đã nhạt, tóc đã phai màu, bàn tay đã nhăn nheo. Tôi vẫn nhớ bài luận văn ngắn gọn tả chị tôi, mà trước khi cẩn thận chấm hết, tôi đã khẳng định rằng tôi yêu chị tôi rất nhiều. VÂN
HẢI
|