CHUNG
Chung dừng chân giữa khung cửa mở rộng, nhìn một lượt
khắp căn phòng sáng sủa, ngăn nắp. Anh gật gù đắc ý.
Xoay người đóng cửa lại, đứng sát lưng vào cánh cửa,
anh nhìn khắp nơi lần nữa, lại gật gù, mỉm cười một
mình. Chợt anh tiến đến cửa sổ trông ra sân sau, sờ vào
thành cửa, lẩm bẩm: -
Chỗ này hơi ẩu, giấy
dán chồm cả lên. Ôi, nhưng không sao. Chung
nhún vai, tắc lưỡi dễ dãi. Miệng lẩm bẩm, chân bước
đi thăm thú kỹ hơn. Vài nơi không đúng ý lắm, làm ăn có
vẻ cẩu thả, thợ nửa mùa, anh lại tắc lưỡi. Cuối cùng
anh vẫn thấy căn phòng mới mua và mới cho sửa lại rất
xinh xắn. Thích nhấy là rất sáng sủa. Vỏn vẹn 25 thước
vuông thôi mà tới 4 cửa sổ, cả trong bếp lẫn phòng
tắm. Cửa sổ to như vậy yên chí lớn, không sợ mùi thức
ăn hay hơi ẩm, chắc chắn thoáng mát vào mùa nóng. Chung
mỉm cười nghĩ tiếp. Mùa nóng ở bên Pháp này quá ngắn,
vỏn vẹn hơn một tháng là nhiều. Ðến
giữa phòng Chung xoay người một vòng sung sướng. lại gật
gù : -
Ðược, được, thế là
được rồi. Nỗi
vui ấy anh không biết chia xẻ với ai lúc này, nên chỉ cứ
nói một mình. Sự bằng lòng về chính mình khiến anh đi
qua đi lại ngắm nghía mãi. Cuối cùng như nghĩ ra điều gì,
anh à lên một tiếng, xoa hai tay vào nhau, vẻ thú vị, tiến
vào bếp, mở tủ lạnh lấy ra một chai coca lớn và một cái
ly lớn, rót đầy ly. Chất nước nâu óng ánh sủi bọt kêu
sè sè, dềnh lên miệng ly gần trào ra ngoài. Chung tru miệng
húp phần bọt gần tràn ra, khà một tiếng, uống một
ngụm thật lớn, rót tiếp đầy ly, rồi cất chai vào tủ
lạnh. mặt vui tươi. Chung bưng ly coca đầy cẩn thận đặt
xuống bàn rồi ngả lưng vào ghế dài thoải mái. Anh vẫn
không ngớt ngắm nghía thành quả mồ hôi nước mắt mình
sau 12 năm phấn đấu, từ lúc còn là thằng bé, để cha
mẹ ở lại Việt Nam, đi theo các cô cậu vượt biên sang đất
Pháp này, đến nay đã 28 tuổi.
Không năm nào vào sáng ngày mùng 7 tháng giêng tây mà
Chung quên không gọi điện thoại cho các cô cậu cùng vượt
biên ngày trước. Bao giờ cũng mở đầu bằng câu « Ngày
đại lễ, cô có nhớ không? » Lần nào Chung cũng
nhắc sơ về ngày đáng ghi nhớ đó. Ngày Chung đặt chân lên
đất Pháp vào 1 giờ sáng rạng ngày 7.1.1980, lúc ngoài
trời -5°C. Ðến từ Jakarta, sau khi được bốc đi bằng
tầu thủy từ đảo KuKu, Nam Dương. Cả bọn người tị
nạn co rúm, mặt nhợt nhạt vì lạnh, vì trên người không
có lấy một manh áo ấm. Có người còn tha cả đôi dép
Nhật chiếc nọ khác với chiếc kia. Cả bọn đứng lóng ngóng
ở phi trường Charles De Gaulle vắng teo vắng ngắt vì tất
cả hành khách bình thường cùng tầu đã ra về từ lâu.
Chỉ còn đám người tị nạn, trong lúc đợi người của
Hồng Thập Tự Pháp ra đón rồi đưa về trại chuyển
tiếp ở Herblay, một ngoại ô miền tây bắc của Paris.
Buổi sáng đầu tiên của ngày thứ nhất trên đất
tự do trắng toát mầu tuyết phủ. Chung co ro vào phòng phát
quần áo ấm để nhận phần mình. Hai tai lạnh buốt như không
còn cảm giác, tưởng chừng mất tai và nhức đầu kinh
khủng. Nhưng trên khuôn mặt, có chút ánh sáng huyền diệu
của sự sống đã được tìm thấy trở lại.
Tối ngày 29.4.75, Chung cùng bố mẹ và 3 em chồng
chất nhau trên chiếc vespa, đèo thêm một bao gạo 25 ký dưới
chân và giỏ xách quần áo trên vai mỗi người. Giống như
hầu hết dân Saigon đêm đó, gia đình Chung cũng lẩn quẩn
ở tòa đại sứ Mỹ, chẳng biết để làm gì, nhưng cũng
đứng đấy. Làm như trong lúc quẫn cùng, chỉ nhìn thấy cái
may mắn của người, mình có thể trút bớt nỗi lo âu trong
mình. Ðứng dưới gốc me ở đường Nguyễn Trung Trực, xa
cửa sau vào toà đại sứ, Chung chứng kiến cảnh chạy tháo
thân lịch sử lúc bấy giờ.
Người ta đu lên đầu lên cổ nhau, leo qua hàng rào
kẽm gai trên bờ tường cao, vừa leo vừa quẳng hành lý qua
rào vào trong, quần áo và chân tay rách xoạc cũng chẳng làm
họ chùn bước. Lính Mỹ phía trong rào đẩy họ ra, xô họ
xuống. Nhưng người này rơi xuống lại có người khác leo
lên, tràn ngập bờ tường, đè rào kẽm gai xuống mà nhẩy
vào phía bên trong. Trên nóc tòa đại sứ, trực thăng gầm
rú, tiếng cánh quạt xành xạch, gió lộng ào ào. Từ xa,
trong bóng đêm, có nhiều bóng người nhốn nháo phía dưới
bụng trực thăng. Tiếng người huyên náo, gọi nhau, khóc lóc,
chửi bới, hòa với tiếng máy bay, tiếng quát, tiếng đạn
bắn chỉ thiên của lính Mỹ, tạo thành một thứ âm thanh
độc đáo chỉ có ở những khi loạn lạc thất thần.
Bóng tối đã khá đầy, những người đứng chầu rìa
như gia đình Chung lần lượt bỏ cuộc ra về. Thật ra
chẳng bỏ cuộc cũng chẳng được vì có bao giơ đến lượt
mình đâu. Chiếc vespa mầu xanh da trời cũ kỹ lại ỳ ạch
chở 6 người gia đình Chung lang thang trên phố phường
Saigon. Lang thang vô định. Chẳng biết đi đâu thật sự.
Vừa qua khỏi trường Marie Curie, thì thấy có một xe ca
lớn, loại xe của các hãng Mỹ, mầu vàng cam dùng chở nhân
viên đi làm, xe rẽ khỏi đường Tú Xương, sang đường Công
Lý, chắc chắn sẽ ra phi trường. Xe chở người chạy
loạn quen biết người Mỹ. Trên xe láo nháo khá đông người
Việt Nam. Ðứng trên bậc sắt đằng sau xe, cửa mở toang,
có người lính Mỹ cầm súng. Xe đó vượt qua mặt xe vespa
chở gia đình Chung, nhưng xe đó không chạy nhanh lắm. Ðột
nhiên từ phía sau, nghe tiếng bành bạch của một xe hai bánh
đi tới. Chỉ nghe tiếng máy cũng đủ hiểu xe đó đang xả
hết tốc lực. Một thanh niên, trẻ măng, đang gò lưng, cúi
rạp người xuống ghi đông của cái velo solex cũ kỹ. Anh
thanh niên cố gắng thu nhỏ người trên chiếc xe như thể
để cho nhẹ bớt và cho đỡ chắn gió, hy vọng xe chạy
nhanh hơn. Rõ ràng anh đang đuổi theo xe ca mầu vàng. Chung
chắc chắn anh ta muốn lên được xe ca nọ. Chung nhoài người
nhìn qua vai bố mẹ để xem anh thanh niên đó làm gì. Trong lòng
chẳng hiểu vì sao, Chung thầm cầu xin cho anh ta theo kịp
chiếc xe kia. Thấy anh sắp đến gần xe nọ, lòng Chung rộn
lên. Ráng, ráng lên, ráng đi! Chung thầm nghĩ như có ý
muốn phụ lực với anh ta, mong anh ta thành công. Quả nhiên
anh đến được sát bên xe mầu vàng. Trong chớp mắt, anh buông
xe solex, nhảy phóc lên bực sắt có người lính Mỹ. Xoảng
một tiếng. Chiếc solex không người lái lăn quay ra đường,
lướt một quãng dài, xuôi vào phía lề đường, tông vào
đó rồi nằm quay bánh trong không khí. Tiếng sắt cà mặt
nhựa đường ken két. Xe vespa của gia đình Chung hơi lạng
quạng vì tránh tai nạn. Vì đột nhiên nhẩy lên xe ca, chỉ
dẫm lên bực sắt, thân người chao đảo tưởng sẽ ngã
xuống, anh may mắn bám vào được cánh cửa, người anh xiêu
vẹo gần như đánh đu trên cánh cửa mở toang. Người lính
Mỹ giật mình. Người lính Mỹ cũng rất trẻ, mặt non
choẹt, anh ta có vẻ hoảng sợ nhiều hơn là hung dữ. Sau giây
phút giựt mình, anh ta kịp thời quay ngang họng súng chĩa vào
bụng người thanh niên. Nhưng chỉ dí vào, cố hất thanh niên
xuống đường, không có ý bắn. Trong xe đột nhiên có một
thanh niên khác chồm ra khỏi đám người đứng chật cứng
trong xe, gạt mọi người, cố len về cuối xe, anh ta la to: -
Khang, Khang, He’s my
brother. Let him go, please! Có
thể trong cơn bấn loạn, người lính Mỹ không nghe thấy,
hay thật sự không muốn có người, chẳng biết ngay gian
thế nào, leo lên chiếc xe anh đảm nhiệm, nên anh ta tìm
mọi cánh đẩy người thanh niên trẻ xuống.
Anh này tay vẫn cố bám vào cửa xe, cố đánh đu.
Bỗng nghe tiếng lên đạn khô khan « rạch, rạch
». Người thanh niên vội vàng buông cánh cửa xe ca, nhẩy
xuống đất. Bước chân lảo đảo cố giữ cho khỏi ngã ra
đường. Trên xe tiếng gọi « Khang, Khang » lại
vang lên, nghẹn ngào, tuyệt vọng. Dưới đường người tên
Khang vùng chạy theo một quãng và gọi lớn : -
Anh An, anh An! Nhưng
chiếc xe ca đã nhấn ga chạy nhanh bỏ hẳn người thanh niên
lại rất xa. Tiếng hai anh em gọi nhau rơi trong cõi tuyệt
vọng xa thẳm. Thanh niên lạng quạng dừng lại, vẻ bất
lực đứng ngay người ở giữa đường, nhìn theo chiếc xe
đang bỏ xa hẳn. Nhìn
sự thất bại và dáng thiểu não của người thanh niên,
tự nhiên Chung khóc. Chẳng riêng gì Chung mà cả bố mẹ
Chung đều khóc. Nước mất nhà tan, anh em chia lìa. Người dân
bơ vơ chẳng biết đi đâu cho được
an toàn. Bóng tối phủ chùm.
Loanh quanh một hồi, Chung lại thấy mình trở về căn
nhà ở cư xá Lữ Gia, Phú Thọ trong Chợ Lớn. Ngôi nhà trông
thật xinh xắn vào mùa tốt, nắng ráo, nhưng bì bõm như cái
ao con, lúc lũ lụt mưa to gió lớn. Mấy mẹ con ngồi trên
giường tát nước. Anh em Chung vẫn lấy nước té ướt nhau
nhiều hơn là múc nước đổ ra đường cái. Nỗi vui sướng
thật ngây thơ vẫn còn nguyên vẹn trong anh, khi nhớ lại
mỗi lần bố mẹ lên tiếng hỏi : -
Có ai đi ông bà ngoại
chơi không? Cả
bốn anh em đồng loạt reo to: -
Dạ có, đi, đi.... Tất
cả hí hửng nhẩy cỡn lên, thật vui sướng. Cho đến bây
giờ, anh vẫn còn thật thà : -
Ðến nhà ông bà là
bảo đảm được ăn ngon, tha hồ, cả ngày chỉ có chơi thôi.
Nếu ông lại cho đi sở thú nữa thì là nhất rồi! Chung
vẫn nhớ hương vị những bữa cơm thanh đạm nhưng rất
ngon miệng nhờ mẹ khéo biến chế, những năm trước khi
ở với Việt cộng. Những năm cay đắng, nghèo túng, chỉ
ăn bo bo vì cộng sản, thì mẹ có tài nấu nướng cũng đành
chịu thua, không biến chế nổi. Chung còn nhớ quầy thuốc
lá kê ngay đầu ngõ, dưới thới cộng sản chiếm miền
Nam, thỉnh thoảng Chung phải ra ngồi bán thay mẹ. Bố
mẹ Chung đã bỏ nghề bán cháo phổi thanh bạch khi Việt
cộng chiếm miền Nam. Vì không muốn làm công cụ cho chế
độ nhồi sọ, u mê hoá con trẻ. Hai người không ra trình
diện nhiệm sở cũ, xoay ra buôn bán nhì nhằng. Cũng vì chán
dậy học và không quen buôn bán nên túng thiếu, việc học
của anh em Chung bị lơ là. Nhưng không vì thế anh em Chung lêu
lổng. Trái lại tình gia đình, sự tương trợ lẫn nhau
trong nỗi khó khăn, nghèo khó, đã giúp anh em Chung có cái nhìn
khác về cuộc đời. Phấn đấu trong sự thanh thản của
tâm hồn. Trót sinh ra đời thì phải tranh đấu, nhưng cốt
sao giữ cho tâm hồn được trong sạch, sáng sủa, lành
mạnh. Chẳng vì nghèo mà quên nền nếp gia phong.
Thời gian chậm chạp qua trong sự túng thiếu chung
của đa số dân miền Nam. Bố mẹ Chung ráng giật gấu vá
vai. Chung và các em ngoan ngoãn phụ giúp. Chú bé gầy cà tong
cà teo, đen nhem nhẻm, vẫn còng lưng chở mẹ và thúng gạo
cùng những thực phẩm linh tinh khác bán rong khắp các chợ.
Vừa bán vừa trông trước nhìn sau, tránh công an rượt đưổi,
không cho bán nếu không đóng tiền chỗ ở chợ. Tiền chỗ
cao bằng một tháng tiền nuôi cả gia đình, đào đâu ra?
Cho nên hai mẹ con cứ chạy lòng vòng, mắt trước mắt sau,
khắp các chợ.
Chung lớn lên, vất vả, nhưng vẫn giữ được vẻ vô
tư, lúc nào cũng cười. Nụ cười thật hiền lành. Ngay bây
giờ, bất cứ ai hỏi thăm : -
Sao khỏe không Chung? ça
va chứ? Có vấn đề gì không? Anh
vẫn tươi cười, xuề xoà: -
Ca va, ça va, khoẻ,
khoẻ, Chung chẳng có vấn đề gì cả. Câu
trả lời nhiều khi làm mọi người ngạc nhiên. Rồi từ
ngạc nhiên đến thán phục. Mọi người mắt thấy rõ
rệt, chứng kiến đích thực sự vất vả của anh trong
suốt mười mấy năm ở xứ người. Học hành gián đoạn
cả Việt lẫn Pháp, bằng cấp không cao, chữ nghĩa học lóm
câu được câu không, làm việc chân tay và làm hùng hục
hai ba việc một lúc, ngoài nghề chính, miễn kiếm ra tiền
để không phải phiền hà vay mượn bất cứ ai và để
gửi về nuôi gia đình còn ở Việt Nam. Ở bên Pháp, luật
lao động chỉ cho phép làm 1 việc, nên Chung phải làm « lậu
» những nghề thứ hai, thứ ba của mình. Chẳng những câu
trả lời thản nhiên như thực sự không có vấn đề gì làm
mọi người kinh ngạc, mà cả đến cách sống ung dung, tự
toại, của anh cũng khiến mọi người phải cúi đầu chào
thua. Nhiều người đã phải tự hỏi với đồng lương
tối thiểu đó làm sao anh có thể rất đều đặn giúp gia
đình cha mẹ và các em còn ở Việt Nam, có thể đi du lịch
khắp thế giới, mỗi năm vào tháng nghỉ thường niên, có
thể tạm sống thoải mái và có thể để dành tiền mua
được căn phòng độc thân này, mà không ai trong thân
quyến nghe thấy một lời than vãn, dù chỉ một lần. Trái
lại lúc nào cũng thấy anh vui vẻ, tươi cười. Và câu
trả lời « ça va, ça va » của anh trở thành độc
đáo.
Chung và Chấn, hai anh em theo bố trà trộn vào đám đông
người mua vé xe đò ở xa cảng miền Tây đi Bạc Liêu. Nhìn
thấy gia đình các cô cậu tản mác gần đó, nhưng theo
lời dặn dò, Chung không dám hỏi han, coi như không quen
biết. Lỡ chuyện vượt biên đổ bể, thì không liên lụy
tới nhau.
Ở Bạc Liêu hai ngày, ban tổ chức cho biết ngày
xuống tầu. Không như một số tổ chức khác kém may mắn,
họ còn phải ở lại nơi tụ họp đợi cả tháng, có khi hơn,
mới được ra đi, vì nội bộ không ăn ý nhau nữa, vì không
chia tiền đồng đều, vì công an địa phương mè nheo thêm
tiền, làm khó dễ đủ cách. Họ như cá nằm trên thớt,
chỉ còn biết trông cậy vào số phận. Trở lại quê quán
không được nữa vì có thể nhà cửa đã bị tịch thu,
chiếm giữ. Người ra đi bị ghép tội « phản quốc
». Hễ bị tóm chỉ có nước đi tù. Ðánh liều ở lại
chờ ngày ra khơi, cũng chẳng yên thân vì kiếp ăn trực
nằm chờ, chịu đủ mọi sức ép từ mọi phía. Và tiền núi
cũng lở, cũng tiêu tán hết. Trong những năm 77, 78, 79, vì
chuyện vượt biên bán chính thức, có nghĩa là do nhà nước
cộng sản tổ chức trá hình dưới hình thức tư nhân người
Việt gốc Hoa bỏ nước ra đi, tổ chức đóng thuyền, nhưng
thật sự thì có rất nhiều người Việt 100% trà trộn, mà
lắm người tán gia bại sản, khóc dở mếu dở, trở thành
ăn mày, ăn xin. Cũng nhờ chuyện này, nhà nước cộng sản
và một số dân đón gió đã vơ vét được một số tiền
chắc chắn khổng lồ, vì cứ tính trung bình mỗi đầu người
7, 8 cây vàng, có nơi 10,12
cây,
trẻ em dưới 16 tuổi 4 cây và dưới 12 tuổi 2 cây.
Giá này cao hạ tùy địa phương. Nhưng cũng không chênh
lệch nhau nhiều. Mỗi tầu như tầu Chung đi chưá 247 người
lớn nhỏ. Có tầu chở 700, 1000 người. Tầu có số danh
bộ đàng hoàng.
Khi xuống tầu, thường tổ chức vào ban đêm, cho
bớt lộ liễu, người đông như kiến, bu đen bờ sông. Có
công an địa phương đeo súng lủng lẳng, đứng gọi tên
từng người có trả tiền vé xòng phẳng. Tuy nhiên mặc dù
được nhà nước cho phép ra đi, có công an địa phương áp
tải, người vượt biên kiểu « bán chính thức
» này cũng vẫn run sợ, cũng vẫn hồi hộp, vì sự phản
trắc và sự gian ác tràn ngập không khí, giáng xuống lúc nào
không hay. Bất cứ một sơ hở cá nhân nào, ví dụ như người
Việt trà trộn trong đám người Hoa, đã dại dột mở
miệng nói tiếng Việt không đúng lúc, vì nhà nước chỉ
chủ trương tổ chức đuổi người Hoa đi ? ? ?, hoặc là
một trục trặc nhỏ nào trong cái guồng máy ăn chặn, ăn
bớt, ăn trên đầu, trên cổ nhau và trên người ra đi, ăn
gian nói dối, báo cáo láo lếu, cộng thêm tâm địa đê hèn,
điêu ác sẵn có của những nhân vật từ cao xuống tới
hạ tầng cơ sở, cũng đủ làm cho bất cứ ai, bất cứ
tầu nào, bị kẹt lại bến. Lúc đó quả thật sẽ xui
xẻo cùng mình. Ðấy là chưa kể đến màn tầu đã ra khơi
mà hỏng máy, hoặc nước ngấm, phải trở lại, hoặc chìm
luôn, chỉ vì
gian thương tham tiền đóng tầu cẩu thả. Cũng chưa
kể đến những vụ cướp của giết người giữa biển khơi
gây ra bởi một số dân chài người Thái trở thành cướp
biển, vì miếng mồi quá hấp dẫn, quá dễ bắt nạt. Cũng
chưa kể đến nỗi gian nan khi bị bão táp mưa sa, thiếu ăn,
thiếu uống, có khi cả tháng trời, mới sống còn trên hòn
đảo nào đó. Chẳng khác chi những người vượt biên lẻ
tẻ gọi
là đi chui. Vì sự gian ác, bão táp và hải tặc đâu cần
phân biệt ai đi bán chính thức, ai đi chui.
Trới nắng chang chang vào lúc 3 giờ trưa, khoảng 50
chục con người bị lèn vào một xe tải xưa nay chở heo.
Hai bên thành xe phủ bạt kín mít, cả phía cuối xe cũng
phủ bạt. Tấm bạt vải dầu cũ kỹ hôi hám và nhớp nhúa.
Kẻ ngồi bệt dưới sàn, kẻ đứng vịn tay lên mấy thanh
gỗ trên trần xe. Người nọ đè lên người kia. Nóng như bưng
không một lỗ hở để thở. Người tổ chức căn dặn không
ai được lên tiếng, rồi biến đâu mất. Xe chuyển bánh.
Ðám người lắc lư như say rượu. Chùm người đứng dạt
qua dạt lại. Những cánh tay nổi gân chịu đựng cơn lắc.
Những kẻ ngồi bệt dưới sàn cắn răng chịu đau mông. Xe
dằn mạnh, nhẩy chồm chồm theo những hố trâu đầm lồi
lõm trên mặt con đường liên tỉnh. Nhiều người lấy
dầu con hổ, dầu xanh, ra bôi trên đầu, trên cổ, trên thái
dương. Mùi dầu trộn với mùi mồ hôi, trộn thêm mùi tấm
bạt khai thối, tanh tưởi, càng làm cho không khí trong xe bít
bùng ngột ngạt. Tiếng uạ mửa bắt đầu. Rồi rãi rớt
bắt đầu vung vãi không cầm giữ nổi. Có người chịu không
nổi cái ngột ngạt đòi hí bạt lên. Kẻ cẩn thận không
cho kéo lên dù chỉ một tí xíu cho gió lọt vào. Tiếng văng
tục, tiếng chửi lẫn nhau, tiếng cãi cọ ồn ào. Tiếng
Tầu tiếng Việt lẫn lộn. Rồi trẻ con khóc la. Rồi
tiếng mẹ rầy con, dỗ con. Chẳng ai nhớ lời người tổ
chức căn dặn phải im hơi lặng tiếng mà ra đi. Chiếc xe
như con thú điên lồng lộn trên đường đưa người đi tìm
tự do. Những khuôn mặt âu lo, câm nín, lẫn lộn với
những khuôn mặt bê bết rãi rớt, xanh rờn, mệt lả.
Những đôi mắt thất thần, tuyệt vọng, nhìn nhau. Xe đi đâu
chẳng ai biết. Bao giờ đến, chẳng ai hay. Chỉ một mực tăm
tắp nghe lời người tổ chức là một ông người Tầu già,
tóc muối tiêu, nói tiếng Việt trọ trẹ. Nhưng bây giờ ông
ta ở đâu chẳng ai hay biết. Xe chạy độ chừng hơn 2 giờ
đồng hồ thì ngừng lại. Ða số người trong xe đều lả
ra rồi. Trước còn lo tránh ngồi phải bãi nôn ẹo, sau thì
có bị mửa lên đầu cũng không còn hơi sức đâu mà cự
nự thủ phạm. Xe đã ngừng lại, nhưng chưa ai dám mở
bạt. Tấm bạt nóng bỏng. Mọi người chẳng ai bảo ai tự
dưng im bặt. Bên ngoài hãy còn nắng. Ánh sáng lọt qua khe
vải. Người tài xế xuống xe, câm lặng, đi vòng ra phía
cuối xe, từ từ mở giây buộc bạt ra. Ánh sáng và không
khí tràn vào. 50 con người vươn cổ ra cố hít vào chút
sinh khí vừa đánh mất. Mùi hôi thối đỡ hẳn. Thế là
thoát khỏi cái xe chở heo. Ông tài xế cũng ngưới Tầu, ú
ớ vài câu tiếng Tầu và tiếng Việt. Mọi người hiểu
rằng đã đến điểm hẹn thứ nhì. Lục tục leo ra khỏi
xe. Kẻ nọ đỡ kẻ kia. Chưa ra khơi, đa số đàn bà trẻ
con đã lả. Chân đi không buồn nhấc lên. Chân nọ bước lên
chân kia, lảo đảo. Ông tài xế dặn mọi người ngồi
xuống đất, đợi. Ðến lúc này Chung mới lết lại gần
gia đình các cô cậu để ngồi chung với nhau. Cố gắng càng
nói ít chừng nào hay chừng nấy, vì là người Việt. Vài
người nằm vật ra bãi đất trống, không một cây cao.
Chung quanh không có nhà cửa, chỉ có những cụm cây thấp,
lúp xúp, đầy bụi đỏ. Con lạch gần đó chẳng mang lại
đuợc tí hơi mát nào. Có người lần mò xuống nước chùi
rửa những nhớp nhúa khi nãy. Nắng vẫn còn khá nóng, mặc
dù đã xế chiều. Kẻ lấy khăn che đầu, người lấy
giấy quạt. Tất cả ngồi bệt trên đất, thiểu não. Ðược
một chốc, ông tầu già tổ chức ở đâu lù lù tiến
lại. Ông nghiêm trọng cho biết sắp xuống xuồng để ra bãi.
Dặn dò xong ông tất tả ra đi. Khoảng 15 phút nữa thì
chiếc xuồng lừng lững trôi vào bờ. Chiều đã xuống
hẳn. Gió đã hết nóng. Ông Tầu tổ chức lại xuất
hiện. Ông im lặng ra dấu cho mọi người tuần tự xuống
thuyền. Lại chen chúc, lại ngồi đè lên nhau, nhưng không
một tiếng động. Nhìn vẻ mặt trầm trọng của ông Tầu
già không ai dám cự nự ai. Trẻ con cũng nín thinh. Loanh
quanh 50 con người lại vẫn lọt nổi vào con thuyền dài
chừng 12 m. Thuyền lướt đi khi chiều đã tắt nắng. Mặt
sông âm u. Im lặng hoàn toàn. Mọi người nín thở. Không khí
căng thẳng. Giờ phút quyết định cuộc đời càng lúc càng
gần. Giờ phút chia lià đã điểm. Mỗi chặng đường kể
từ bây giờ là mỗi lúc xa gia đình, xa đất nước, dần
dần, dần dần. Thuyền lướt đi êm nhẹ trong khoảng 15 phút
nữa. Lau sậy hai bên lạch rì rào gió chiều. Ðột nhiên sông
rộng ra. Một bãi đất đỏ quạch hiện ra trước mắt. Trên
bến bãi, đã có cả trăm con người đứng ngồi lộn xộn,
kẻ hai tay không, người xách theo túi nhỏ. Luộm thuộm,
lố nhố trên bãi. Nhưng vẫn không một tiếng động.
Những con người đó như những người câm. Nhóm của Chung
vừa đến được dồn đứng chung với những người vừa
thấy. Sau đó lại có một tốp khác được dồn chung vào.
Bóng tối phủ xuống thật rồi. Những đống người trở
thành những đống đen. Dưới
quán lá ven sông, ba cha con ngồi ăn bữa cơm giã từ. Bố
Chung cố gắng ngoại giao với ông người Tầu già cho theo
ra tận đây để tiễn anh em Chung. Chung mơ hồ nửa cảm
thấy bồi hồi xúc động vì phải xa bố mẹ và các em,
dấn thân vào cuộc đời khác, nửa cảm thấy có điều gì
hối thúc, xen lẫn chút sung sướng vì được may mắn ra đi.
Vì vượt biên và sống còn là giấc mơ của đa số dân
miền Nam lúc bấy giờ. Có điều chắc chắn Chung biết là
bố mẹ đã hy sinh, làm vượt cả sức mình chỉ đủ để
cho hai anh em Chung, Chấn ra đi.
Cơn mưa từ đâu đổ xuống. Trời bỗng tối đen hơn.
Tuy mới khoảng hơn 7 giờ chiều. Gió nổi lên. Người tổ
chức lùa đám người ra đi xuống bãi sông lõm bõm bùn đỏ
vì bến mới được dọn rộng ra để làm bãi. Trong bóng đêm,
dưới cơn mưa tầm tã, Chung lật đật theo chân mọi người.
Trong sự bàng hoàng, chẳng nhớ có chia tay với bố chưa,
chỉ thấy tự dưng bố mất hút trong đám đông, và mình đứng
chung với những người ra đi đợi nghe gọi tên. Tay nắm
chặt tay em, Chung canh cánh lẩm nhẩm cái tên Trung Hoa do ban
tổ chức mới gán cho mình trên tờù lý lịch giả, vài ngày
trước khi xuống Bạc Liêu. Bùn đặc quánh dâng lên đến
tận đầu gối theo nước mưa trút xuống như vũ bão. Ba
bộ quần áo Chung mặc trên người ướt sũng. Cơn lạnh
từ đâu kéo đến. Chung run lập cập.
Chung cựa mình trên ghế, mắt đăm đăm nhìn ly coca
lạnh. Hơi nước chảy thành dòng dài xuống đọng thành
một vũng nhỏ trên bàn. Tâm hồn anh như đang còn vướng
lại ở bến sông, dưới cơn mưa tầm tã, cũng chảy thành
dòng dài trên khuôn mặt người thiếu niên thơ ngây ngày đó.
Nỗi xúc động còn nguyên vẹn dường như được anh dằn vào
tiếng thở dài thoảng nhẹ. Chung lại cựa mình trên ghế
như để đánh thức mình rời bỏ dĩ vãng đau buồn đó.
Anh lan man nghĩ tới Chấn, nghĩ tới những phấn đấu và
may mắn cũng như thành công đã đến với em. Ánh mắt xa xôi
chợt như tìm lại được nét vui tươi. Chung nhỏm dậy,
với ly coca uống cạn sạch. Anh lại lẩm bẩm : -
Thôi đi tắm. Trước
khi bước vào phòng tắm, Chung dừng chân trước tấm bản
đồ thế giới căng rộng trên tường. Ðã có hơn 30 lá
cờ khác nhau được Chung đánh dấu mỗi khi đã du lịch qua
nơi đó. Ngón tay anh ngập ngừng dí vào một lá cờ. Cũng vì
lá cờ này mà gia đình anh phải phân tán đau thương. Năm
tới có thể Chung sẽ về thăm bố mẹ và các em. Có thể
thôi. Màu cờ đỏ như máu còn khiến anh suy nghĩ. Tiếng nước chảy ào ào cùng tiếng Chung huýt sáo một bài rất xưa của Bee Gees. VÂN
HẢI
|