CON
BÉ
Con bé đứng dưới mái hiên nhìn ra sân. Nắng đẹp
quá, rực rỡ. Nó nheo mắt liếc nhìn bức tường đối
diện, phía bên kia sân. Nắng rọi vào đó làm chói mắt.
Bức tường quét vôi màu vàng nhạt trở thành trắng xóa
hắt ánh vàng chói lọi khiến cho ánh sáng mặt trời như
được pha thêm màu vàng óng như mầu mật ong.
Ngoài sân đầy học trò đang chạy nhẩy, cười nói,
nô đùa. Ðây là giờ ra chơi buổi sáng. Con bé rất muốn
chạy chơi. Hai chân nó chỉ thèm nhảy nhót, nhất là nắng
đẹp và mọi người vui như thế.
Có nhóm chơi đánh chuyền. Tiếng đũa cọ sát vào
nhau rồi đập xuống đất hay đập vào lòng bàn tay, lách cách,
lách cách, nghe thật vui tai. Hai bàn tay quay bó đũa nhiều vòng
trong lúc trái banh nhỏ tung cao rồi rơi xuống được hứng
lấy gọn gàng, trông như đang múa.
Tốp khác nhảy dây. Hai đứa con gái cầm hai đầu dây
vung tròn thật mạnh, quật tréo hai sợi dây thành vòng tròn
đôi. Ðám này khá đông, có đến hơn mười đứa. Xếp hàng
một, đứa đứng sau ôm eo và xô đẩy đứa đứng trước,
dập dềnh như làn sóng, thay phiên nhau vào vòng dây, nhảy
nhịp nhàng. Hai chân trước sau nhún lên khỏi mặt đất đủ
để lướt qua sợi dây rà sát đất rồi lại vòng lên qua
đầu. Ðợi khi hai sợi dây vượt qua đầu, nó chui ra khỏi
vòng thì đứa khác nhảy vào. Có đứa nhảy vào hụt, nó
phải ra thay thế đứa đang quay dây. Một vài đứa sợ
vạt áo dài vướng dây nên túm cả hai vạt áo buộc thắt
lại thành một búi lòng thòng trước bụng. Cứ thế rồng
rắn lòng vòng. Chúng cười rỡn, hò hét vang dậy một góc
sân.
Lại có nhóm chơi lò cò. Bàn lò cò như hình thánh giá
đuợc vẽ bằng gạch đỏ trên nền xi măng. Ðứa vẽ cẩn
thận vạch đi vạch lại mấy lần cho rõ các lằn ranh ô vuông.
Chúng đúng xây lưng lại bàn lò cò, ném viên gạch qua đầu
để xem sẽ rơi vào ô nào. Gọi là « thi ». Càng
gần phía chân càng được chơi trước. Có khi viên gạch
nẩy ra xa thì đứa đó xụ mặt, buồn rầu, vì như thế, nó
sẽ phải đi bét cùng. Viên « tràm » của nó không
« ngon » rồi. Nó đem viên gạch đi gò lại,
cạ xuống nền xi măng nhiều lần cho thật vừa ý, ném
thử vài lần cho chắc bụng, rồi mới tụ vào đám bạn,
chơi tiếp.
Chợt có đứa la to: -
Ê, con Hạnh ăn gian
Con Hạnh ăn gian.
Không được để tràm ngay đầu rồi cho nó tuột
xuống lưng. Nó ăn gian, bắt nó thi lại đi tụi bay. Cả
lũ nhao nhao. Con Hạnh đỏ mặt cãi: -
Không
giao ước trước, tao làm sao tao làm chớ! -
Không
được, không được. Mày phải thi lại, không thì xịt mày
ra, khỏi cho mày chơi. Con
Hạnh vùng vằng vì vừa rồi, với cách cho tuột tràm qua đầu
chứ không hất ném như mọi người, tràm của nó rơi ngay vào
ô đầu tiên. Tức là nó được chơi trước tiên. Nó gân
cổ, đỏ mặt lên cãi. Nhưng cả bọn không đứa nào
chịu. Nó giận dữ ném hòn tràm của nó ra xa. Mồm ngoạc
ra kể lể lỗi lầm của những đứa kia, trong những lần
chơi trước đây. Nhưng cả bọn khăng khăng không chịu và
đã như quên mất nó, cứ say sưa tiếp tục thi và bắt đầu
chơi. Con
Hạnh tần ngần đứng bên cạnh, tiếc rẻ. Mặt nó đỏ
bừng. Mồ hôi lấm tấm trên trán. Mấy phút trôi qua. Dường
như nó đợi tụi kia thương hại, cho nó chơi lại. Nhưng
chẳng đứa nào lý tới nó nữa và vì tự ái nó không
mở miệng xin chơi tiếp. Ðợi
chán, chân nó đã dợm bước đi mà mắt vẫn nhìn đám
bạn. Tụi này miệng hò hét, mắt chăm chăm nhìn vào chân
đứa đang chơi rình xem có dẫm lên vạch đỏ hay hòn tràm
có nằm lên lằn ranh không. Chúng nó quên hẳn con Hạnh
mất rồi. Con Hạnh từ từ quay đi, vừa tức tối, vừa
buồn bã, vừa tiếc rẻ. Nó chợt nhớ miếng tràm. Những
ai trong đời niên thiếu, đã chơi lò cò, thì tất hiểu người
chơi quí hòm tràm đến thế nào. Con Hạnh nhớ đến rồi
cuống quít đi tìm miếng tràm nó đã vất xa trong cơn giận
dữ. Nó lom khom, len lỏi trong đám học trò đang nô đùa,
chạy qua chạy lại. Nó bị nhiều đứa la hét đuổi đi vì
làm vướng chân trong lúc chúng đang chơi hăng say. Miếng tràm
của con Hạnh làm bằng mảnh sành của cái chậu kiểng
vỡ. Nó đã ghè tròn, nhẵn thín, trơn mịn, không dày lắm
và chỉ to cỡ hơn 2cm đường kính. Con Hạnh tìm mãi không
thấy. Nó bắt đầu cáu kỉnh, nạt lại mấy đứa xua
duổi nó bắt tránh chỗ. Nó cũng tức mình vì nếu lỡ
mất hòn này, nó lại phải mất công mài rũa hòn khác, mà
chưa chắc đã ngon như hòn này, vừa nặng, vừa trơn, thẩy
đâu nằm đó, xủi một cái, nó chạy lướt tới mấy ô. Cũng
nhờ nó mà con Hạnh hay ăn mỗi khi chơi. Nó tiếc hùi hụi
vì đã tìm khá lâu mà không thấy. Tính bỏ ý định đi tìm,
thì nó chợt thấy con bé bỏ hàng hiên, bước xuống sân, cúi
nhặt cái gì trong rãnh cạn ngay sát bờ hiên. Con Hạnh phóng
như bay đến bên cạnh, chỉ kịp liếc vào tay con bé, nó đã
nhìn ra hòn tràm của nó. Con bé chưa kịp mở miệng nói,
con Hạnh đã nhảy bổ tới, giựt phắt miếng sành, hùng
hổ: -
Của tao, bộ mày tính
lấy hả? Rồi
như chợt nghĩ ra điều gì, nó nhìn sát vào mặt con bé
rồi ngặt nghẽo : -
Bắc Kỳ ăn cá rô cây,
Bắc Kỳ ăn cá rô cây! Nó
vừa la to vừa nhảy quanh con bé, xoè đủ mười ngón tay ra
đưa lên gắn hai bên tai mà vẫy vẫy như hai cái tai voi.
Cổ nó vươn dài, đưa ra đàng trước. Mồm nó tru lại, lưỡi
thụt ra thụt vào, lùa nhanh trong mồm phát ra những âm thanh
kỳ dị. Trông nó như du côn. Hai đứa con gái khác, chẳng
hiểu ở đâu, tự nhiên cũng chạy lại về hùa với con
Hạnh. Miệng và tay không ngớt trêu trọc con bé. Một đứa
bắt trước con Hạnh phe phẩy hai bên tai, còn một đứa để
năm ngón tay ở đầu mũi mà ngoáy ngoáy. Ba đưá cứ vừa
nhảy nhót chung quanh con bé vừa cười ngặt nghẽo : -
Bắc Kỳ ăn cá rô cây,
Bắc Kỳ ăn cá rô cây! Chúng
nó chỉ độ 10, 11 tuổi. Mới lên lớp đệ thất. Tựu trường
đã được mấy tháng nên học trò cũ mới đã có thì giờ
làm quen với nhau. Những đứa ngổ ngáo như con Hạnh đã có
đủ thì giờ lập thành một nhóm cứng đầu, phá phách và
hay trêu ghẹo người khác cũng như ăn hiếp những đứa
nhút nhát.
Riêng con bé, ba ngày nay hãy còn đứng một mình dưới
mái hiên, nhìn người ta chơi và nhìn nắng vàng trải khắp
sân trường. Mới đây bà hiệu trưởng vừa đưa nó vào
lớp của con Hạnh, giới thiệu là một người bạn đến
đây từ phương xa, vì chẳng những nó từ trường khác đến
đây, lẻ loi, mà còn từ phương khác đến, xa lắm, tận
Hải Phòng, Bắc Việt.
Ðầu năm 1955, ăn xong cái Tết cuối cùng. Tết gì mà
buồn thiu, chỉ có pháo xì, pháo chuột của lũ trẻ con. Người
lớn, người ở lại cũng như người ra đi, chẳng còn ai
thiết tha đến ăn Tết và đốt pháo. Trẻ con không có lì
xì cũng chán ngán, đành tự an ủi bằng vài cái pháo xì,
pháo chuột vậy. Trái lại chợ trời đầy dẫy các vỉa hè.
Người mua thì ít, người bán thì nhiều. Trong số người
ở lại chưa chắc toàn thể đã ở lại vì muốn sống
với chế độ mới. Họ ở lại vì không đủ tiền ra đi,
không có thân thích cùng đi cho an tâm, không dám mạo hiểm,
dù chỉ là đi vào Nam, cũng là đất nước Việt Nam. Nhưng
đối với một số người cũng đã cách trở quá. Có người
không đi vì nghĩ chẳng lẽ đang tự nhiên bỏ nhà, bỏ
cửa, bỏ mộ phần ông bà cha mẹ mà đi? Có người nghĩ
đơn sơ rằng có làm cái quái gì đâu mà sợ, chẳng chính
chị chính em gì, lương thì quèn, ba cọc ba đồng, ai sao mình
vậy, mà ai làm gì mình mới được chứ? Thế thì ở lại
là phải. Lại có người ở lại vì tiếc của. Cơ sở làm
ăn đang khấm khá, ruộng vườn bao năm do ông cha làm ra, chính
tay mình vun bồi, gây dựng, chẳng lẽ bỏ? Có người ở
lại vì tin ở cuộc bầu cử hai năm sau khi đình chiến. Lúc
đó thì sẽ hai năm rõ mười. Thế thì cần gì phải đi đâu?
Có người trái lại thấp thỏm, vui vẻ, ở lại. Hớn hở
chờ đón bác Hồ và những gì bác hứa hẹn. Tây thực dân
cút rồi, đất nước hòa bình mà chạy đi đâu nữa? Nhưng
có người dứt khoát tư tưởng. Có « họ »
sẽ không có tôi, cái thứ ma quỷ ấy thì chỉ nên tránh,
chẳng nên dây vào. Không diệt được thì chỉ có « tẩu
» là thượng sách.
Vì thế chợ trời đìu hiu. Thành thử giá cả rẻ
mạt. Dẫu vậy cũng chỉ lác đác người mua. Thượng vàng
hạ cám, từ tủ chè, sập gụ trạm trổ tinh vi những con dơi,
những chùm nho, trông như thật, vài chỗ khảm xa cừ lấp lánh.
Tất cả được khổ chủ đánh bóng lưỡng, sờ vào mặt
gỗ đen nhánh, êm mịn và mát rượi. Cả đến câu đối,
hoành phi sặc sỡ, thêu rồng, thêu phượng, rồi tủ giường,
bàn ghế đủ kiểu. Ðến cả những thứ linh tinh như bình
phích nước, ấm giỏ, sách dầy cộm, nặng nề, tự điển,
sách chữ hán, cho đến chổi cùn rế rách cũng được đem
tuốt tuột ra vỉa hè. Bán được đồng nào hay đồng ấy,
dằn túi vào Nam lập lại cuộc đời. Nhưng chỉ có rất ít
người mua không đắn đo vì quá rẻ. Số còn lại chỉ đi
xem. Có người nghĩ có thể đợi thêm ít hôm sẽ đuợc cho
không. Nhưng có lẽ tin đồn về sự san bằng giai cấp
khiến đa số hoang mang và do dự không dám mua.
Con bé đi theo bố mẹ đi xem chợ trời. Bố mẹ nó
chẳng vì ưa thích, vì vui thú mà đi xem. Nhưng vì muốn
chứng kiến tận mắt, muốn sống những giây phút tự do
cuối cùng trên mảnh đất của cha ông và của chính bản
thân mình. Chứng kiến và sống những giẫy giụa cuối cùng,
giây phút lâm chung của một nửa quê hương thương quý. Như
chứng kiến sự tê liệt bán thân của người thân thích, sót
sa mà không cách gì cứu vãn. Nhà nó đã cho hết một số
đồ đạc cồng kềnh cho người thân ở lại. Một số đã
gửi theo các chị nó cùng bà ngoại nó đi tầu há mồm vào
Nam từ giữa năm 1954. Nó được bố mẹ giữ lại đi máy
bay vào phút chót, tức là còn ăn xong cái Tết cuối cùng này,
trước khi đất nước hoàn toàn chia đôi.
Mặc dù đã học dở dang đệ thất ở ngoài Bắc
rồi, nhưng khi vào Nam, bố nó vẫn bắt nó học lại lớp
đệ thất ở trường này. Nó chẳng hiểu tại sao, vì các
chị nó không bị học lại như thế. Còn bé, nó chẳng
thể có ý kiến gì.
Không phải tại nhút nhát mà mỗi buổi ra chơi con bé
còn đứng dưới mái hiên từ ba ngày nay. Thực ra nó đã
quen với những đổi thay suốt từ khi ra đời cho đến
giờ phút này.
Tám năm trời con bé đã ròng rã theo chân bố mẹ
chạy tản cư khắp Bắc Việt, trong chiến tranh Việt Pháp.
Từ Hà Nội, phố Hàng Cau, chạy về quê nội ở Bạch Mai,
rồi Phủ Lý, Nam Ðịnh, Thái Bình, cuối cùng chạy vào
tận Thanh Hoá. Kể từ khi còn được bỏ ngồi trong cái thúng
cho người ta gánh, chung quanh chèn nào chăn màn, tay nải
quần áo, chui dưới cái chiếu bẻ khum che mưa nắng, đôi
khi còn ngồi chung với đứa bé khác. Cho đến khi biết
chạy bộ tấp tểnh, thất thểu trên những con đê cao và dài
thăm thẳm, tay nắm chặt vạt áo của chị nó không dám
rời. Hoặc trên những con đường ruộng nhỏ hẹp, trơn như
mỡ vào những ngày mưa phùn dai dẳng trên đất Bắc. Sột
soạt trong cái áo tơi mưa làm bằng lá gồi. Cái áo cứng
ngắc, ngay đơ, không có tay, ở cổ có sợi dây dừa bện
để buổc lại. Áo chùm cả người suốt từ cổ xuống đến
bàn chân. Mu bàn chân rám nắng hằn rõ nét hai quai dép cao
su to bản bắt chéo vào nhau.
Nó đã quen với cảnh đi học lớp vỡ lòng ở trường
làng. Trong ngôi đình trống trơn, trơ nền đất nện mát
lạnh. Bàn học là chiếc ghế gỗ xếp lại và cặp là túi
vải bà ngoại nó may cho. Hàng ngày nó phải cắp hai thứ đó
kèm thêm lọ mực tím móc ở ngón tay trỏ, đu đưa theo bước
chân hai chị em nó đi đến ngôi đình này cách nhà nó cả
bốn năm cây số đường ruộng. Lọ mực tím đôi khi nhạt
mầu đã được chị em nó bóp nát mấy hạt mồng tơi bên
hàng dậu, bỏ thêm vào cho đậm mầu hơn. Trong đình, trên
đầu cột tròn mọt ruỗng, trước đây đã khá lâu có lẽ
được sơn mầu đỏ, từng mảng mầu nâu gụ lẫn mầu đỏ
long lở như đám ghẻ, có chỗ cột chưa rụng ra, nhưng y như
bị rỗ hoa, đầy lỗ mọt. Mạng nhện giăng đầy chỉ rung
rinh chứ không đứt, mỗi khi bom đạn nổ tơi bời vì máy
bay Pháp thực dân nã xuống, cùng bụi cát ào ào đổ
xuống từ mái đình dột nát.
Nó cũng đã quen với những lần lăn nhào xuống hố cá
nhân hay hố tập thể để tránh bom đạn. Không kịp nhìn
xem hố nông sâu, ngập nước, có rắn, có ếch nhái hay hố
khô ráo, đất đỏ lấm bê bết, hoặc hố đã có người
nhảy xuống trước. Hoặc có khi hoảng quá, không kịp nấp
vào đâu, cứ việc sóng xoài ngay ra mặt đất. Nằm dán sát
mình vào mặt đất mà run cầm cập, như con thằn lằn, răng cắn đứt môi
chảy máu lúc nào không hay. Có người mắt nhắm nghiền,
mồm lắp bắp niệm Phật, câu niệm đứt quãng vì thở
hổn hển. Có người vừa run nhưng vẫn nghiêng mặt hé
mắt nhìn lên trời xem có bao nhiêu chiếc máy bay đen ngòm
đang chao liệng và khạc lửa hay thả những chùm bom. Vừa
nhìn vừa hồi hộp đợi bom chạm đất, đợi tiếng nổ đinh
tai nhức óc, long trời lở đất, mà cảm thấy mặt đất
rung chuyển dưới lồng ngực mình đồng thời cũng hiểu
rằng mình vừa thoát chết, rằng mình còn sống, còn nghe
được tiếng bom nổ. Ðợi khi máy bay đã lắng xa, tiếng
bom đạn không còn ầm vang nữa, nó cũng như mọi người
lại lóp ngóp chui lên khỏi chỗ nấp và sinh hoạt bình thường
lại tái diễn. Mặc
dù chạy loạn, nhưng lúc nào bố mẹ con bé cũng lo lắng
việc học của các con, nên đi đến đâu, cho dù chỉ ở vài
tháng vì chiến tranh lại gần phải bỏ chạy, chị em nó
vẫn được đi học. Nên nếu kể số bạn thì phải kể
rất nhiều vì cứ thay đổi trường luôn, mỗi khi gia đình
nó chạy quanh những làng mạc miền Bắc.
Một ngày nào đó, còn đang học lớp vỡ lòng ở trường
làng, nghe nó hát leo lẻo như con vẹt bài Quốc Tế ca của
người cộng sản, Bố mẹ nó hốt hoảng. Thế ra « họ
»đã có mặt nơi hẻo lánh này. Một cuộc bàn tán âm
thầm được bố mẹ nó quyết định. Thu vén cho nhanh, dắt
gia đình vềâ tề. Ðó là tên gọi những vùng đất không
cộng sản.
Khi tám tuổi, nó tha thẩn đi nhặt sấu chín rụng
quanh những gốc cây sấu sơn trắng ở phố Hàng Vôi, Hà
Nội. Rồi ngơ ngác bước vào sân trường tiểu học của bà
sơ ở Hà Nội. Chưa được bao lâu, đã thấy ghi tên vào
một trường khác, cũng bà sơ, ở Hải Phòng. Sau đó, chưa
xong niên khóa, thì nó lại đã đứng đây, gần giữa năm
học ở Saigon. Cho nên con bé không nhút nhát vì lạ trường,
xa bạn cũ. Nó cũng chẳng vội vàng bắt bạn cho bớt cô
đơn hay bớt sợ bị bắt nạt. Nó để thì giờ nhìn
ngắm, nhận diện, thu thập những hình ảnh mà trước đây
cuộc sống bấp bênh, vội vã đến hốt hoảng không cho phép
nó tận hưởng tất cả những rung động của một đứa bé
khi cắp sách đến trường. Cho nên khi con Hạnh và hai đứa
bạn nhảy nhót xung quanh mà trêu nó « Bắc Kỳ ăn cá
rô cây », nó lấy làm lạ, vì chưa bao giờ nó
chứng kiến trò chơi như thế, mặc dù nó hiểu tụi kia không
chơi mà đang trêu trọc nó. Con bé tự hỏi thầm « ăn
cá rô cây » là cái gì? Trong bụng nó bật cười vì
mấy chữ lạ tai đó. Lòng nó cười nên nụ cười thoáng
hiện trên khuôn mặt nó.
Ba đứa kia đang nhảy nhót, tự nhiên thấy con bé cười,
thì hơi ngạc nhiên. Chúng do dự một giây rồi lại tiếp
tục trêu, nhưng cường độ giảm hẳn. -
Cá rô cây là cái gì
thế? Con
Hạnh và hai đứa bạn giật nẩy mình. Thôi nhảy nhót.
Ngẩn mặt ra vì câu hỏi bất ngờ. Chúng tưởng con bé
phải sợ, ai ngờ nó đã chẳng sợ, lại còn cười và
rất bình tĩnh nói chuyện. Ba đứa ngưng nhảy, đứng thộn
mặt ra. Con Hạnh ngập ngừng : -
Cá rô cây hả? Tao hổng
biết, mày có biết hông? Nó
quay sang hỏi con bạn bên cạnh. Con nhỏ này nhún vai, lè lưỡi
ra, rụt cổ lại. Con bạn thứ hai từ tốn hơn : -
Tao nghe thiên hạ trọc
quê mấy đứa Bắc Kỳ... Bất
thình lình, nó ngừng bặt, mặt đỏ lên, mắt nhìn con bé,
do dự vài giây, nhìn sang hai con bạn, rồi tự nhiên nó
sửa lại: -
Mấy người...mấy người
ở ngoải như dậy đó. Nghe nói ở ngoải người ta nghèo
lắm, hổng có tiền ăn cá, nên làm con cá bằng cây, mỗi
bữa ăn đem ra bày cho có dậy đó, giả bộ làm như ăn cá
thiệt dậy đó. Nó
có vẻ mừng rỡ khi tìm ra được cách gọi hay ho hơn là
gọi bằng...mấy đứa Bắc Kỳ. -
Làm bằng cây? Con
bé mở to mắt hỏi. Rõ ràng nó chẳng hiểu làm bằng gì. Cái
cây to thế kia... Dù âm thanh tiếng nói mấy đứa kia lạ
tai, nhưng con bé vẫn hiểu câu chuyện, chỉ có chỗ làm
bằng cây thì vẫn thấy hơi lạ. -
Ừa,
làm bằng cây. Bộ mày hổng biết cái cây sao? Người ta cưa
cái cây ra rồi làm thành con cá. A,
bây giờ thì con bé mới vỡ lẽ. Hoá ra con cá được đẽo
bằng gỗ. -
Mày có biết chơi cò cò
không? Con
Hạnh buột miệng hỏi. -
Có chứ, tụi mình chơi chung nhé. Con
bé mau mắn đề nghị. Hai chân nó quá thèm chạy nhảy
rồi. -
Ừà,
mà mày có tràm hông? Con
Hạnh vừa hỏi vừa đưa hòn gạch ra như sợ con bé lại không
hiểu gì cả. Nó cũng thấy giọng của con bé hơi ngồ
ngộ. Vẻ du côn lúc nãy biến mất. Bây giờ nó lại rất
ôn nhu. -
Không,
tao không có...tràm. -
Tao
cho mày hòn tràm. Tao có một hòn cũng ngon lắm. Nhưng không
phải hòn này. Hòn này tao quý lắm đó, mất nó là khổ tao
lắm à. Nó
giơ hòn gạch ban nãy vừa giựt trên tay con bé. Con Hạnh
nghiêng đầu nghiêng cổ nói với vẻ sung sướng lẫn hãnh
diện rằng mình đang làm một việc tốt. Nó vạch cái túi
vải nhỏ đeo ở cườm tay ra. Hóa ra đó là cái túi nó
cất mấy hòn tràm của nó. Nó đổ ra đất. Con bé và hai
đứa bạn ngồi thụp xuống xem. Tay nắm vạt áo dài dắt vào
bụng cho khỏi lết đất. Có đứa thò tay lựa lựa. Con
Hạnh ré lên, hất tay đứa đó ra: -
Hông, hổng cho mày, chỉ
cho con nhỏ ...Bắc Kỳ thôi. Nó chưa có, nó từ ngoải dô
đây, đâu có cái gì đâu héng? Mà... mày tên gì? Tao tên
Hạnh, con này tên Dung, con này tên Tiên. Mày hổng cho biết
tên, tụi tao cứ gọi ...con Bắc Kỳ ráng chịu à! Nó
ngước nhìn con bé ra chiều khuyến khích con bé đồng ý
với nó. Giọng nó hoàn toàn dịu ngọt, dễ thương. Nó
bốc nhanh hòn gạch đưa cho con bé rồi vội vàng thu vén
những hòn còn lại vào túi vải, đeo vào cườm tay. Nó hăng
hái lom khom vẽ bàn lò cò khác. Nàng cẩn thận đứng nép sau
bụi cây ngoài hàng rào ngôi trường rõi nhìn con bé đang đứng
tần ngần một mình giữa sân trường huyên náo. Ðã ba ngày
nay, con bé vẫn đứng chỗ đó, vẻ tần ngần, nhưng không
sợ hãi. Hôm nay có ba đứa đang nhảy nhót xung quanh con bé.
Sáu ngón tay trỏ dược đưa ngang đuôi mắt mà kéo đôi
mắt cho dài ra và híp lại. Chúng reo hò như hát:
- Eh, la chinoi...se, eh, la chinoi...se !
Vừa nhảy nhót vừa kéo mắt cho giống người á đông.
Lưỡi cũng thụt ra thụt vào phát ra những âm thanh kỳ dị
để trêu con bé. Con bé vẫn bình tĩnh đứng đó. Hình như
có thoáng nụ cười trên khuôn mặt da vàng trong sáng ấy.
Nàng chợt nhớ đến nụ cười của chính mình bao năm
về trước. Ðã tưởng cái cảnh đổi trường, đổi cả
địa phương, nơi ở, chỉ có thế hệ nàng bị hệ lụy.
Ai ngờ đâu, hôm nay, nàng đang chứng kiến, không đang
sống lại hoàn cảnh cũ. Con bé, con gái nàng, có lẽ còn
vất vả hơn nàng nhiều, vất vả trăm lần mới mong chinh
phục được lũ bạn khác mầu da, khác tiếng nói, khác
chủng tộc, khác cả phong tục tập quán. Nhưng nụ cười vừa thoáng hiện trên khuôn mặt kia khiến nàng yêm tâm. Nàng quay đi, trong lòng vươn lên hằng hà mơ ước. VÂN
HẢI
|