PHIÊN
TÒA
Phiên tòa sáng nay xử hai vụ nên trong hành lang và
sảnh đường khá đông người. Tuy đông nhưng hầu như ai cũng
cố nói khẽ nên chỉ nghe tiếng động trầm trầm, rù rì mà
thôi. Không khí tòa án căng thẳng. Hai bên cửa vào phòng
xử, hai cảnh sát Mỹ cao to, vạm vỡ đứng ngay đơ như hai
pho tượng, cây súng dài chống xuống đất được giữ ngay
ngắn trong bàn tay phốp pháp.
Mọi người không ai dám đứng gần hai ông hộ pháp
đó. Nhất là đám á đông. Họ túm tụm với nhau ở một góc
hành lang có cửa sổ nhìn ra vườn cỏ cắt thật ngắn,
gọn gàng, thẳng góc cạnh, có trồng mấy cây cọ vươn
cao, đâm lá cứng tua tủa. Dân á đông xưa nay đi tới đâu
là ồn ào tới đó mà ở đây hôm nay, người nào người
nấy chẳng ai bảo ai, chỉ dám thì thào.
Vốn dĩ nhỏ người, đám á đông đứng với nhau trông
như đàn kiến nhỏ bên cạnh những người khổng lồ đi
qua đi lại trong sảnh đường rộng có trần nhà cao vút
đưa đến nhiều phòng làm việc khác. Nhóm thứ hai là người
Mễ. Trông bề ngoài có vẻ dân tứ chiếng. Nước da ngăm
đen, mai mái. Tóc đen bóng như lông quạ, quăn và dài. Có người
buộc túm thành đuôi sau ót dù là đàn ông. Có người dù
trời nóng, cũng diện quần da bóng loáng, đi giầy mũi
nhọn, có đế cao. Vụ xử người Mễ đến sau vụ xử người
á đông, nhưng có lẽ vì cẩn thận hay vì nóng máu, sốt
ruột, họ cũng có mặt. Ðám này trông vẻ hung hăng. Nói năng
vung tay loạn xạ, hùng hổ đi qua đi lại, bước chân kêu
lộp cộp trên sàn gạch carô đen trắng bóng loáng. Tuy thế
họ cũng không dám lớn tiếng.
Cửa phòng xử chợt mở rộng. Một ông mặc quần áo
dân sự và một cảnh sát đi ra. Ông mặc dân sự tiến đến
hai nhóm người nói vài câu, rồi thấy mọi người lục
tục kéo nhau vào. Phía á đông cũng có đến hơn mười người.
Già trẻ, lớn bé đủ cả. Một bà cụ lom khom, chống cây
gậy, quần đen áo bà ba, cũng đi lẫn trong đám, có người
thanh niên dắt đỡ một bên. Người cảnh sát khi nãy đi
sau cùng, đóng cửa lại sau lưng ông ta rồi đứng ngay đó.
Bà con nhút nhát ngồi gần vào nhau ở những hàng ghế
cuối cùng. Nhưng ông dân sự ra mời lên ngồi vào mấy
dẫy ghế hàng đầu. Lại lúc thúc kéo nhau lên sát đằng
sau bàn luật sư có lan can gỗ ngăn chia ranh giới. Lúc đó
nhóm á đông mới tự động tách ra hai phe đối nghịch. An
vị xong, mọi người lại nín thở chờ đợi.
Tuyết được chỉ định ngồi ngay ghế bên cạnh ông
biện lý vì Tuyết là nạn nhân và là người đưa đơn
kiện. Phía bàn bị cáo chỉ mới có bà luật sư.
Nghe tiếng động lịch kịch phía cửa hông đối
diện cử tọa, mọi ngưới nhìn hướng đó. Bồi thẩm đoàn
lần lượt kéo vào, ngồi trên bục cao có ngăn riêng. Mười
hai người nhiều chủng tộc khác nhau. Chỉ có một người
gốc da vàng, nhưng hình như người Ðại Hàn. Ít phút sau
nữa, cửa cuối phòng xịch mở, bà con ngoái đầu lại.
Giữa hai người cảnh sát lực lưỡng, Tiùến bước vào.
Hai tay bị còng thòng phía trước bụng. Dù đã mặc bộ đồ
âu phục tạm tươm tất vẫn không dấu vẻ mặt hốc hác,
xương xẩu, hai mắt chõm sâu, thâm quầng. Anh siêu vẹo đi
giữa hai hàng ghế đến bàn nữ luật sư. Một cảnh sát
mở còng khóa tay cho anh, chỉ anh ngồi xuống ghế, rồi họ
ngồi xuống hai bên.
Có tiếng thút thít rất nhẹ và tiếng khịt mủi
trong cử tọa phía sau lưng Tiến. Nhìn lên bục bồi thẩm
đoàn, rồi nhìn bàn quan toà còn trống, Tiến hơi xoay người
liếc nhìn qua bàn bên kia. Anh thấy Tuyềt ngồi ngó đi
chỗ khác. Nhưng hai đưá con anh đang chăm chăm nhìn anh.
Tiến vội vàng nhìn xuống chân, lòng anh tan nát. Tiện đà,
Tiến xoay hẳn người ra đằng sau. Mắt anh chợt sáng lên
rồi đỏ hoe lập tức. Anh vội quay ngoắt đi, ngồi ngay người
lại, mắt nhìn thẳng lên phía quan toà. Anh đau đớn thấy
em trai ngồi cạnh mẹ anh. Bà cụ đang chậm nước mắt.
Tiếng thút thít khi nãy chắc chắn là do bà. Lại
có tiếng mở cửa rồi tiếng hô dõng dạc báo hiệu phiên
toà khai mạc. Cử tọa đứng lên ngồi xuống đồng loạt
sau khi quan tòa an vị.
Ðây là phiên tòa chót, sẽ tuyên án, nên không còn
chuyện tranh biện, buộc tôi và chống đối giữa đôi bên.
Tiến bị đưa ra tòa vì tội cố sát vợ và bạn.
Tuyết bị thương ở bả vai. Sau hơn một tháng điều trị
đã lành nên đi dự đủ các phiên tòa, kéo dài hơn bảy tháng
rồi. Người bạn trai bị thương nặng hơn nhiều, lủng
phổi, lủng ruột, gẫy chân, còn phải điều trị nên
vắng mặt.
Tiến là cảnh sát đô thành Saigon. Cấp bực không ghê
gớm gì nhưng anh rất khoái bộ đồng phục, chiếc dùi cui
và cây súng dắt bên hông. Cảnh phục cho anh vẻ oai phong
của các đấng mày râu anh vẫn thấy trong các phim cao bồi
xứ Mỹ, cưỡi ngựa, bắn súng đùng đùng. Anh thì không có
ngựa, nhưng có chiếc Honda đàn ông màu đen, anh coi như con
tuấn mã trong phim vậy. Cũng như các vai chính, anh bênh vực
kẻ yếu và hù dọa trừng trị đám ăn cướp, ăn cắp, lâu
la làm càn, làm khó dễ bà con trong đô thành. Yêu nghề
nghiệp, anh phục vụ cơ quan an ninh thành phố Saigon rất đắc
lực.
Tuyết vợ anh làm trong PX của Mỹ, nên nhà anh có đầy
đủ mọi thứ. Ðồ ăn, đồ dùng cần thiết. Ðôi lúc
thừa thãi, đem cho bớt bà con lối xóm, không kể đã đem bán
chợ đen. Thành thử quỹ gia đình có đồng ra đồng vào.
Tuyết lúc nào cũng láng coóng, tóc tai ra hiệu chải bới,
uốn gội đàng hoàng. Móng tay móng chân để dài, sơn đỏ,
trông như hai bàn tay mẫu bằng thạch cao nặn, bày trong tủ
kiếng mấy tiệm bán vàng bạc ở Saigon. Quần áo thì khỏi
nói. Lúc nào cũng theo mốt theo thời. Thêm vào vóc dáng óng
ả, Tuyết lại sáng dạ. Chỉ theo học một khóa anh văn ở
Hội Việt Mỹ vào buổi tối, Tuyết đã đối đáp trôi
chảy với mấy lính Mỹ coi kho PX.
Ðôi khi tiện giờ, Tiến chở vợ đi làm. Thả vợ
xuống tận cổng cơ quan, Tiến hãnh diện thấy vợ xí xa xí
xô với mấy đồng sự khác chủng tộc. Cũng có khi anh
thấy ghen tuông chút đỉnh khi thấy họ ôm vai, vỗ lưng
vợ anh. Nhưng Tuyết xì nẹc chê anh quê mùa, không biết
cử chỉ đó chỉ là xã giao của người ngoại quốc. Sau
nhiều lần để ý, anh thấy quả thật người xứ đó họ
cư xử như vậy với bất cứ ai quen biết, bạn bè, chứ không
phải sàm sỡ riêng vợ anh. Và anh thấy thật tình anh quê mùa
quá. Tính ghen bậy bớt đi rất nhiều thì sự tin tưởng
ở lòng dạ Tuyết tăng lên bấy nhiêu. Bao
nhiêu năm lính Mỹ có mặt ở Việt Nam, bấy nhiêu năm gia
đình anh sung túc, hạnh phúc tràn trề. Hai đứa con lần lượt
ra đời, tăng thêm hạnh phúc sẵn có. Tiến rất mãn
nguyện.
Khi quân đội Mỹ ào ạt rút lui thì các cơ quan Mỹ
ở Việt Nam đồng loạt đóng cửa. Tuyết ngày đêm rủa
xả và kêu than xui xẻo. Tuy nhiên tình trạng gia đình chưa
đến nỗi nào. Với vốn liếng khá, Tuyết khôn ngoan, khéo
léo, kịp thời xoay sang mở sạp bán linh tinh ở chợ Kim Biên.
Tuy không ăn ngon như bằng làm cho PX, nhưng vẫn có tiền.
Tiến phục vợ sát đất. Người đâu mà giỏi thế. Xoay
sở nhanh như chớp. Vừa bị mất việc ở PX, đã tìm ngay
ra kế sinh nhai khác. Trông ăn diện vậy chớ té ra cũng
biết để dành, bằng không lấy đâu ra tiền sang sạp
chợ? Lại chịu thương chịu khó thức khuya dậy sớm. Anh
quả là có phúc lớn mới lấy được. Nhưng điều này anh
giữ kín trong tâm thôi, hé môi ra nó sẽ làm tàng ngay.
Tiến tự nhủ như vậy. Anh thấy yêu vợ tha thiết. Làm ăn
được gần hai năm thì bắt đầu ế ẩm. Chiến tranh leo
thang. Người ta lo thủ, không ăn tiêu dễ dàng như xưa. Hàng
ế, Tuyết kiếm thêm bằng cách buôn đô la. Nhưng cũng không
ăn thua. Gặp tiền giả cũng ớn lắm. Buôn bán chẳng còn
lời bao nhiêu. Phần Tiến bù đầu vì công việc lo giữ an
ninh thành phố. Du côn, du đãng, gặp thời thế hỗn mang, làm
càn nhiều hơn. Ngoài ra còn phải cảnh giác cao độ, vì
Việt Cộng cho đặc công trà trộn trong dân chúng, gây rối
loạn trong đô thành. Mức sống trong gia đình sụt xuống
nhanh chóng. Hai vợ chồng đấu khẩu gần như cơm bữa.
Mới đầu còn nho nhỏ. Trẻ con chưa hay biết. Sau thì
chẳng ai giữ mồm giữ miệng nữa, mạnh ai nấy gào. Hai đứa
bé sợ quá, rúm vào trong xó nhà mỗi khi cha mẹ thượng
cẳng chân hạ cẳng tay. Chẳng ai nhường nhịn ai, chẳng ai
thua kém ai. Tiến đau nhất là những lúc Tuyết lên mặt
kể lể công lao mình xây dựng nên sự nghiệp. Những lúc
đó Tiến chỉ muốn nổi điên lên mà vặn cổ con vợ già
mồm. Ý nghĩ mình là người có phúc lớn mấy năm trước
hoàn toàn biến mất trong đầu Tiến. Bây giờ anh chỉ
thấy bị nhục mạ, coi thường, coi rẻ. Tính cả ghen đột
nhiên trở về. Anh chợt nghĩ có khi vợ anh có tình ý với
thằng bạn Mỹ nào rồi cứ vịn cớ đó là cách giao
thiệp tự nhiên của người ngoại quốc. Bạn bè gì mà hôn
má, ôm lưng? Mới tới cửa hãng đã « hai »
với «
ba ». Ra về không khi nào quên hô « bai
» rồi vẫy tay rối rít. Tuyết thì cứ cười tít mắt.
Mới tụt xuống khỏi xe chồng là chạy tế vào sở. Ðiệu
này chắc trước đây con vợ có cho mình mọc sừng mà mình
không hay? Nó còn chê mình quê mùa nữa. Càng suy nghĩ càng
ức lòng, càng tiếc khi xưa không biết vì tin tưởng quá,
nếu không đã bắn bỏ cả hai đứa cho rảnh mắt. Ðôi khi
Tiến lén lút ngắm hai đứa con, cố tìm một nét gì khả dĩ
có thể nghi nghờ có chút máu lai nào chăng. Nhưng ngắm mãi
vẫn chỉ thấy đứa con trai giống hệt mình và đứa con gái
y khuôn mẹ nó. Ấy vậy mà óc tưởng tượng của Tiến
vẫn hoạt động và lòng ghen hờn càng như lửa cháy.
Tuyết thấy Tiến quá vô lý đến lố bịch khi ghen với
chuyện không có, hơn nữa chuyện không có này lại thuộc
về quá khứ. Hồi đó không ghen, bây giờ trở chứng.
Tuyết thấy mình chẳng có gì đáng trách về mặt tình
cảm đó. Vì quả thật Tuyết chẳng mê ai. Bản tính hay trưng
diện khi có phương tiện, hay cười đùa, có khi cợt nhả
thật, nhưng đi đến ngoại tình thì Tuyết chẳng bao giờ
nghĩ đến. Ở môi trường nào Tuyết cũng sống được
nhờ tính dễ dãi, bất cần, dễ hội nhập, dễ hòa mình,
nhưng không vì thế mà Tuyềt trở thành hư đốn như Tiến
lên án từ ngày gặp khó khăn trong cuộc sồng đến nay. Cô
thầm nghĩ « Trời ơi là trời ! Ðói gần chết, không
lo kiếm tiền nuôi con, còn bày đặt ghen với tuông, thật là
lãng xẹc ! ». Cũng vì thấy vô lý quá nên cô nhất
định không nhượng bộ mỗi khi cãi nhau.
Lúc đầu chỉ đánh nhau cãi nhau vì không quen sống
thiếu hụt và cho rằng bị coi thường. Riết rồi Tiến
xoay chiều thành ra vì ghen tuông. Ðiều đó làm Tuyết tức
muốn điên luôn. Chán rồi cô chẳng buồn cãi cọ. Mỗi khi
Tiến bắt đấu nổi cơn, cô dắt con chuồn sang hàng xóm,
không để cho Tiến đánh mình nữa. Nhưng khuya về, nếu
Tiến chưa chịu nguôi, lại giở thói vũ phu, thì Tuyết
nhất định ăn thua đủ, không chịu thua. Hai đứa nhỏ
lại nấp trong xó nhà hay trở sang hàng xóm. Tuy
cãi nhau, đánh nhau với chồng, nhưng Tuyết rất cưng con, không
bao giờ để chúng thiếu thứ gì. Lúc nào hai đứa bé cũng
tươm tất dù nhà thiếu hụt. Tuyết có thể bỏ trưng
diện, bỏ thói đi tiệm uốn tóc, bỏ sơn móng tay, bỏ
quần áo mốt, nhưng Tuyết không bao giờ để các con thiếu
thốn.
Chợ Kim Biên hôm nay vắng teo vắng ngắt một cách khác
thường. Khách không có một người. Chỉ có mấy dẫy quán.
Số lớn đóng cửa. Vài quán cố mở bán. Buồn bã, bạn hàng
túm tụm kẻ đánh tứ sắc, kẻ coi bài đoán quẻ. Cũng còn
kẻ còn chìa chân ra sơn móng chân. Cả khu chợ đìu hiu.
Tuyết ngồi ngáp vặt. Xương sống mỏi nhừ vì cứ ngồi
suốt ngày, không hoạt động. Cô thượng hai cẳng chân lên
cao, gác vào cột quán. Tay bóp bóp bụng chân, vuốt ngược
lên đầu gối. Người ta chạy giặc từ miền Trung vào đông
như kiến. Cô thấy trong hình trang nhất tờ báo của ông
bạn hàng bên cạnh. -
Bộ
ở ngoài đó đánh lớn lắm hả, anh Tư? -
Còn
phải hỏi, thiên hạ chạy rần rần đây nè. Ông
bạn hàng tên Tư, vỗ vào tờ báo. -
Nè
thấy người ta tràn lan dữ chưa? Chết quá xá. Hổng chết
bom đạn cũng chết chìm. Bây nhiêu người đeo lấy mấy
chiếc tầu buôn, không chìm thì có phép lạ. -
Anh
Tư thấy tình hình có sao không anh? Cái mửng bán hàng này,
chắc tụi mình chết trước ai hết. -
Ơ
chắc ngày mai tui cũng đóng mẹ nó cho rồi. Ngồi cả ngày
không có một cắc bạc. Em có bán được đồng nào không? -
Có
khỉ khô, ngày mai anh đóng cửa hả? Chết em rồi, hổng
lẽ em mở một mình? Còn có mấy nghoe đây, anh mà đóng thì
tiêu hết. -
Vậy
chớ mở, bán cho ai? Nghỉ vài ngày coi sao, sau rồi tính. -
Chà,
vậy chắc em cũng theo anh Tư quá. -
Nghe
đâu Việt cộng đang đánh ở Thủ Ðức, Biên Hoà gì rồi.
Chiều qua có hai máy bay thả bom dinh Ðộc lập, nhưng ông
tổng thống đi mất mẹ nó rồi, em không nghe sao ? -
Ủa, ai mà thả bom? Bộ
Việt cộng hả anh Tư? Em nghe bom thả nhưng có biết ai thả
ai. Cha, cái điệu này... Tuyết
mệt và lo muốn chết. Ngồi hoài mà không có đồng nào vào.
Ai đánh ai cô chẳng cần biết, chỉ cần có người mua hàng
mà thôi. Ngày hôm nay, coi như thất bại hoàn toàn. Vì còn
phải chi tiền xăng cho chiếc Honda để chạy về nhà nữa
chớ. Gần 7 giờ, sắp đến giờ đóng cửa rồi. Quá 7
giờ, mọi người lục đục đóng cửa quán. Khoá kỹ càng
bằng sợi xích lớn rồi kéo then sắt ngang. Khóa thêm lần
nữa. Tuyết ngao ngáo lên xe ra về. -
Em về nghe anh Tư. Ngày
mai anh không mở thiệt hả? Chà, em không biết tính sao đây.
Hổng mở, chắc chắn hổng có gì ăn rồi đó. Kẹt quá! Em
nhịn miệng được chớ con em làm sao đây? Tội ghê đi!
Ðánh nhau chi vậy, làm khổ bà con chớ được cái gì. Ba cái
thằng Việt cộng ác ôn... Trời
tháng tư nóng điên người. Chạy xe mà vẫn nóng. Về nhà
đã xẩm tối. Hai đứa con lóng nhóng trước cửa đợi
mẹ. -
Ba
đâu? Mấy con ăn chưa? Sao không ở trong nhà bật đèn lên,
để nhà tối thui vậy con? -
Ba
chưa về. Tụi con đói quá à. Hết đồ rồi. má có mua gì
ăn hông má? Tiến
vắng nhà. Tuyết thở phào. Ðỡ cãi nhau, đánh nhau. Tuyết
dịu dàng nói : -
Má mệt gần chết đây.
Ôi tội chưa, chờ má chút xíu, má lo cho mấy con ăn liền
nghe! Hai
đưá bé lẽo đẽo theo mẹ vào nhà. Cơm nước chu đáo cho
hai con xong, cho con đi ngủ, Tuyết mới lo tới mình. Không
hiểu sao cái lưng hôm nay đau nhức quá trời, mỏi nhừ nơi
thắt lưng. Tuyết lấy miếng Salonpas dán vào rồi lấy dầu
cù là thoa hai thái dương. Nhức đầu nữa. Mệt quá. Nằm
trằn trọc hoài, khá lâu mà chưa ngủ được. « Ông
Tiến đi đâu mất tiêu, không thấy về.» Tuyết
thầm nghĩ. « Lúc rày hay bị trực, đánh nhau rát quá
mà.... ». Ðánh nhau, cãi nhau vậy chứ mà Tuyết vẫn
yêu chồng. Nhiều đêm Tiến bị trực, Tuyết cũng thấy thương
chồng lúc sau này cực nhọc hơn xưa. « Nhưng ai mà không
khổ hơn xưa, Việt cộng đánh dữ quá mà... » Cô
lại thầm nghĩ. « Nhưng mà thật là xì nẹc, thật là
khùng, bầy đặt ghen với tương. Chết đói tới nơi còn
bầy chuyện. Bộ hết chuyện lo... »
Người ta ồn ào ngoài phố. Tiếng xe cộ và tiếng người
ầm ầm như ngày hội. Tuyết bực mình vì ồn quá không
ngủ được, phần thì nóng. Nàng mò dậy mở cửa sổ ra
xem. -
Ủa
lạ, người ta đi đâu mà nhiều thế? Mặc
dù có lệnh giới nghiêm, ngoài đường thiên hạ vẫn kéo
nhau chạy ào ào. Kẻ chạy bộ, kẻ đi xe đủ loại. Nào
ôm, nào vác, nào đội, đủ mọi thứ, túi xách, va li, đồ
đạc cũng có. Dân cũng có mà nhà binh cũng có. Tuyết hết
hồn khi thấy hàng xóm mình cũng có nhà đóng cửa bỏ
chạy. Con cái lốc thốc chạy theo người lớn, kêu réo om xòm.
-
Chết cha rồi, chạy
giặc. Thánh thần thiên địa ơi! Làm sao bây giờ? Ông Tiế-n
đâu rồi? Vội
vã đóng cửa sổ lại, Tuyết hoảng hốt quay vào khua hai
con dậy. -
Dậy mau, giặc tới. Thằng
nhỏ thèm ngủ, người cứ mềm rũ ra. Tuyết lắc mạnh. Nó
chỉ ú ớ, nhướng đôi mắt lên, rồi lăn ra ngủ tiếp.
Con chị hoảng hốt lồm cồm bò dậy. Dụi mắt, chẳng hiêûu
chuyện gì. -
Cái
gì vậy mẹ? -
Lẹ đi, lẹ đi. Quơ đại quần áo bỏ vào đây đi
con, lẹ lên. -
Quần áo nào mẹ? -
Trời ơi, quần áo chớ còn quần áo nào.
Tuyết
quýnh quáng. Tuy nói thế mà chính cô cũng không biết quần
áo ở đâu mà quơ. Con bé còn ngái ngủ, chẳng thấy cái xách
tay Tuyết quăng cho nó, cứ chạy quanh. Tuyết hét lên: -
Bỏ vào đây. Nàng
lại quăng thêm cho nó cái giỏ nylon đan mầu hồng. Phần cô
miệng hét tay quơ lung tung. Cô vớ tấm drap buộc túm bốn
đầu rồi vơ được cái gì cũng nhét vào đấy. Cô tiếp : -
Kêu em dậy đi con. Trời
ơi là trời, giặc tới rồi còn ngủ. Giặc
đâu cô không thấy, nhưng thấy người ta chạy quá xá, nên
cô phát hoảng. Vai khoác gói quần áo bọc trong khăn trải
giường, một tay dắt con chị mếu máo, một tay bế xốc
thằng con trai vẫn ngủ mềm rũ người, cô quýnh quáng
chạy quanh. Con bé chạy theo mẹ, tìm chìa khoá xe Honda. -
Trời ơi là trời! Chìa
khóa xe đâu rồi, có thấy không con? Con
bé bị lôi xềnh xệch. Nó vẫn nắm chặt cái giỏ nylon
mầu hồng vẫn xài đi chợ. Quần áo loi thoi nhét vội lòi
ra cả mép giỏ. Tìm được chìa khoá rồi. Tuyết vội nhét
thằng nhỏ ngồi vào chiếc ghế nhỏ gắn ở sau ghi đông.
Thằng bé ngồi gật gù nửa thức nửa ngủ, người nghiêng
hẳn sang một bên, đầu nghẻo vào vai. Hối con gái trèo lên
yên sau, cô rú ga phóng xe đi. Con bé ôm chặt bụng mẹ,
mặt áp sát vào lưng mẹ. Một tay nó thõng xuống vẫn không
rời cái giỏ mầu hồng. Hoang mang chẳng biết đi đâu. Cứ
thấy đông người ta chạy hướng nào, cô đi theo hướng đó.
Nhà cô chỉ cách đường lớn Hàng Xanh độ 50 thước. Khi
ra tới đường lớn, cô càng hết hồn. Người ta chạy
loạn đông như kiến. Thiên hạ mặt mũi thất thần, chạy
ngược chạy xuôi, nhốn nháo. Trời tối mò. Ðèn đường
không đủ sáng. Ðèn xe hơi , xe đủ loại loang loáng, càng
gây thêm vẻ kinh hoàng. Theo dòng người như thác lũ, cô
chạy xe về phía Khánh Hội. Rồi cũng theo dòng người, không
kịp suy nghĩ, không kịp nuối tiếc chiếc xe Honda, cô bỏ
xe lại bến tầu tối om, xốc nách con gái, ôm con trai,
chạy bộ trối chết. Bom đạn bay veo véo, tiếng xe gầm rú,
tiếng trực thăng xành xạch ngay trên đầu. Ba bốn lần ba
mẹ con ngã dúi xuống đất. Nhưng chẳng hiểu sức mạnh nào,
đến từ đâu, cô lại lồm cồm trỗi dậy, tiếp tục
dắt con chạy thục mạng. Có chiếc tầu rất lớn ngay bến
tầu. Người ta ùn ùn leo lên. Tuyết cũng kéo con leo lên.
Cô thoi, cô đạp, cố chen lấn để leo lên chiếc tầu to tướng
sắp rời bến. Khi Tuyết tìm được chỗ ngồi trên sàn
tầu, thì ba mẹ con mệt lả. Cô ngồi sệp xuống sàn, hai
đứa nhỏ ghếch đầu lên đùi mẹ ngủ vùi, xoảy chân
xoảy tay. Tuyết mệt tưởng muốn đứt hơi. Ðạn bắn tơi
bời, trên bờ vài nơi lửa cháy. Miểng gạch văng tứ tung.
Có những lằn đạn tưởng như sẽ trúng tầu. Mọi người
ngửng đầu nhìn theo vệt sáng mà run. Chỉ sợ nó rơi trúng
ngay mình. Dân chúng trên tầu nhốn nháo trong bóng đêm đầy
lửa đạn. Thế rồi Tuyết lả đi trong nhịp rung của con
tầu lướt sóng, trong tiếng nổ ầm ầm của súng đạn. Tỉnh
dậy, trời đã sáng, nhưng nắng chưa lên. Không còn lửa đạn
nữa. Còn sớm lắm. Bây giờ Tuyết mới thấy đặc nghẹt
người ta chung quanh mình. Kẻ nằm người ngồi. Người
ngủ vật vờ, kẻ thức ngồi bất động, đôi mắt thao láo
như nhìn vào cõi không. Ðồ đạc lỏng chỏng, tùm lum.
Tuyết ngơ ngác, rồi hỏi người bên cạnh. Ông ta cho biết
đây là chiến hạm của quốc gia, hình như sẽ đi Guam.
Chẳng hiểu Guam là nơi nào, ở đâu, nhưng vừa nghe nói
sẽ có Mỹ vớt, Tuyết thấy tỉnh cả người, yên tâm
hẳn. Lúc này, cô mới chợt nhớ tới Tiến. Hoá ra ba mẹ
con cô ra đi, bỏ lại Tiến. Ngay lúc đó cô chợt sợ và thương
Tiến. Sợ cho mình đơn thân sang xứ người với hai con
nhỏ, lấy gì mà sống? Thương và sợ cho Tiến, chẳng
hiểu có chạy kịp không hay là kẹt rồi. Một lát sau, cô
lại nghĩ hay là Tiến đã bỏ mẹ con cô ra đi một mình, nên
tối qua không có nhà. Dám lắm, ổng hăm bỏ nhà đi nhiều
lần rồi vì chán cảnh đấu võ mồm lẫn tay chân với cô.
Tuy nhiên thuộc loại người « ruột để ngoài da
» chỉ loay hoay với mấy ý nghĩ đó ít lâu, cô lại chợp
mắt đi một chặp nữa. Có người mang theo radio. Người ta
thấy vậy mừng quá đề nghị vặn to lên cho mọi người cùng
nghe. Saigon đang bị bao vây, có đánh nhau ngay tại cầu Xa
Lộ và cầu Sắt Ðakao. Vài giờ sau nghe Saigon thất thủ.
Ðài phát thanh Saigon rè rè, âm thanh hỗn độn, chứng tỏ
đang có thay đổi quan trọng. Rồi một giọng thật gay gắt
lên tiếng. Người ta chuyền tai nhau đó là ông chuẩn tướng
Hạnh, cán bộ Cộng sản nằm vùng, bây giờ xuất đầu
lộ diện. Nhiều người há hốc mồm không tin ở chính tai
mình. Máy vi âm lại nhiều lần rè rè, không có tiếng nói
rõ rệt. Ít phút sau thì có tiếng đàn guitare và một
giọng ca nhừa nhựa, hơi hướng trọ trẹ, cất lên, đơn
độc. « Từ bắc vô nam, nối liền nắm tay...
» -
Thằng khốn kiếp! Bây
giờ thì cái mặt nạ phản chiến của nó đã rơi ra rồi. -
Ai
vậy? -
Thì
cái thằng « thiếu thuốc choác » chứ ai vào đây. Chưa
dứt bài hát thì có tiếng cán bộ cộng sản đanh thép sang
sảng phản ảnh tình hình Saigon. Hắn ta tả cảnh xe tăng
Việt Cộng tiến vào dinh Ðộc lập, sau khi ủi sập một bên
cổng sắt. Dương Văn Minh lên tiếng đầu hàng. Giọng ông
ta trầm trầm. Trên tầu nhiều người òa khóc to. Có người
lảo đảo đứng lên vịn thành tầu, gục đầu sát vào thành
sắt, như muốn nôn ọe. Có người vịn vào thành sắt mà
mắt nhìn về phía sau đuôi tầu, hướng Saigon, hướng quê
nhà, khóc âm thầm. Nước mắt tuôn rơi dầm đìa. Hai vai
rung lên. Có người chỉ ngồi thẫn thờ, không nói một
lời. Mặt buồn như đưa đám người ruột thịt. Cái radio
cứ ra rả một giọng nói lạ lẫm, hằn học và ngạo ngược.
Ðó là gần trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. «
Thế là hết, mình thật sự bỏ nhà bỏ cửa đi rồi ».
Tuyết nghĩ thầm. Trong cô bỗng dâng lên một mối u hoài khó
tả. Một cái gì như một mất mát lớn lao khiến tâm hồn
cô tan loãng, không chú tâm được vào chuyện gì cả. Có cái
gì bềnh bồng trong cô. Mặc dù cảm thấy nỗi mất mát đó
sâu đậm và to lớn, nhưng cô không thể biết hẳn hoi cô
mất cái gì.. Ðiều gì khiến cô bỗng dưng cảm thấy hụt
hẫng. Chuyện sẽ được Mỹ vớt làm cô yên tâm khi nãy bây
giờ không đủ mạnh để cô vui hoặc thấy đỡ mất mát,
đổ vỡ. Và như nhiều người trên tầu, Tuyết ngồi im lìm,
câm lặng hồi lâu, thật lâu.
Ðến Guam. Cũng như mọi người, Tuyết và hai con làm
thủ tục nhập cảnh nước Mỹ. Nhờ lý lịch đã làm cho
PX Mỹ, hồ sơ của Tuyết thuộc dạng ưu tiên vì là nhân
viên của cơ quan Mỹ. Tuyết mừng. Trong khi chờ đợi bốc
đi, cô chỉ có việc hàng ngày ra xếp hàng lãnh thực phẩm
và vật dụng. Lại nhìn thấy những đồ như trong PX cũ,
Tuyết như cá gặp nước. Cô tỉnh cả người. Lại tí toét
cười đùa rồi lân la làm quen với những nhân viên Mỹ
tại đảo.
Thời gian ngắn ngủi ở Guam đủ cho Tuyết mục kích
nhiều cảnh nực cười. Chạy loạn, tị nạn, nhiều ông to
bà lớn ngày xưa, quen thói thu vén của công làm của riêng,
lại trổ tài tom góp, lại vơ vơ vét vét, tranh nhau thu vén
đủ thứ về mình. Bủn xỉn và hèn hạ. Ðến cả vài lon
bia, vài món đồ hộp tầm thường. Rồi cũng không chừa cái
tật kéo bè kết đảng, chạy cửa hậu, lòn cúi, nịnh
nọt, chạy chọt, may ra hồ sơ đoàn tụ đi nhanh hơn. Họ
thấy Tuyết thoải mái thì vừa ganh tị vừa ước ao. Một
mặt vẫn ra điều xa cách vì coi cô không xứng đáng quen
biết họ. Bản tính cô xưa nay hay coi thường mọi sự,
chỉ cần mình biết mình, nên Tuyết thản nhiên lo cho các
con và tính toán chuyện tương lai.
Một tháng sau mẹ con đến California. Tuyết thấy xứ
Mỹ rộng mênh mông, văn minh tiến bộ quá sức tưởng tượng.
Có căn bản giao thiệp với Mỹ trước đây rồi, cô không
thấy ngỡ ngàng khi phải tiếp xúc với họ. Vì thế Tuyết
kiếm được việc dễ dàng. Nhờ làm thợ lắp ráp máy vô
tuyến, Tuyết thuê được căn nhà đủ tiện nghi, xắm
chiếc xe hơi vì ở Mỹ không có xe coi như què chân. Hai con
đi học ngay và không gặp trở ngại gì. Tuyết thấy đời
tươi đẹp lại. Ở đây có sức khỏe là có tiền. Tuyết
bắt chước thiên hạ đi làm thêm « job » thứ
hai như đa số người bản xứ. Ngày làm thợ, chiều tối
đứng bán pizza. Tính tình vui vẻ, biết hội nhập, nên
Tuyết rất đông bạn bè ngoại quốc. Người Việt mình e dè
lựa chọn quá đáng, lại hay chia giai cấp, coi cô như một
loại « me Mỹ » nên Tuyết ít bạn Việt Nam.
Tuy thế cô vẫn nhớ và thèm những gì nhắc nhở đến quê
nhà. Ta về ta tắm ao ta vẫn hơn. Cũng vì nghĩ thế nên
Tuyết thân với Long. Anh sang đây một mình, bỏ lại vợ. Trên đường di tản từ Nha Trang vào Saigon, con gái 5 tuổi của anh bị trúng đạn thiệt mạng. Vào tới Saigon, chiều ngày 29 tháng 4, vợ chồng anh tìm về nhà cha mẹ Diệp, vợ anh. Sáng sớm ngày 30 tháng 4, anh thấy người ta còn di tản. Rủ Diệp ra đi, nhưng vợ anh nhất định không chịu, lấy cớ không nỡ bỏ cha mẹ già ở lại một mình. Lưỡng lự một hồi. Nhưng sau khi suy nghĩ, cái gốc bắc di cư của anh cũng như quá khứ làm cho Mỹ khiến anh lo sợ, rồi anh đi đại theo những người di tản cuối cùng. Biết đâu thoát. Hóa ra anh thoát thật. Anh cũng như Tuyết, được đến bến tự do sau khi ghé Guam. Long lui cui sống một mình từ ngày sang Mỹ. Có thể coi như cùng thời gian với Tuyết. Hai người làm bạn với nhau. Tuy nhiên cả hai cùng giao hẹn sẽ chia tay nhau khi vợ Long hay Tiến, chồng của Tuyết, sang đoàn tụ. Cả Long và Tuyết cùng đã làm đơn xin bảo lãnh người thân của mình. Long và Tuyết cùng nghĩ chỉ dựa vào nhau sống qua ngày trên xứ người mà thôi. Long vẫn ở căn phòng mình thuê và Tuyết vẫn một mình ở với hai con. Long không về ở chung với mẹ con Tuyết. |