THIẾU
PHỤ BÊN KHUNG CỬA
Mai ái ngại nhìn theo chú chim nhỏ đang vừa xù lông
rụt cổ vừa nhảy chuyền cành nọ sang cành kia, cuối cùng
chui vào bụi cây thấp bên cạnh giếng nước nhà nàng. Bên
ngoài tuyết đổ mênh mông. Những cụm bông trắng nõn thi
nhau ào ạt rơi, trắng đặc không gian, phủ gần kín thảm
cỏ xanh và đám cây thuya gần hàng rào. Miệng giếng vốn
tròn lúc này trở thành vòng sáng trắng lung linh óng ánh như
vòng kim cương lớn, nổi bật trên thành giếng xây bằng
gạch đã lâu ngày, rêu xanh mọc lốm đốm, đúng chỗ
gạch vỡ.
Trời thật lạnh, nhưng nắng vẫn to. Tuyết đổ xiên
xiên trong ánh nắng rực rỡ cùng sự tĩnh mịch của buổi
trưa mùa đông năm nay. Chú chim hình như đã tìm được nơi
tạm dung thân nên Mai không thấy nữa. Nàng chợt bắt gặp
trong khung cửa kính nơi nàng đứng áp sát vào, mờ mờ ẩn
hiện khuôn mặt một thiếu phụ với ánh mắt có vẻ u
buồn. Vài sợi tóc mai lòa xòa cọ vào má. Mai vén tóc lại
cho gọn trong vòng vải buộc tóc, tiếp tục đăm chiêu
ngắm người thiếu phụ hiện trên khung cửa kính.
Những nét xuân thì chỉ còn thấp thoáng. Nàng nhìn sâu
vào đôi mắt người thiếu phụ, nhìn thật lâu. Anh cười
trong đôi mắt người ấy dìu dịu, bớt nhiều long lanh. Mai
cúi nhìn sợi tóc vương trên vai, nhận thấy tóc mình đã
thưa dần và có nhiều sợi bạc. Ðưa bàn tay ra trước
mặt, lật sấp lật ngửa đôi ba lần, Mai bật cười nhìn
hai bàn tay mình. Hai bàn tay chắc chắn không phải để đeo
nữ trang, ngoài chiếc nhẫn cưới. Hai bàn tay nhăn nheo,
nổi gân, đốt xương to, móng tay cắt ngắn sát. Hai bàn tay
là tay thợ, để đục đẽo, cưa xẻ, đóng đinh, trộn hồ
và sơn phết nhà cửa, như Mai đã từng làm trong nhà mình.
Quả thật Mai cũng phải tự thú nhận mình không là
người nội trợ giỏi. Làm những món ăn qua loa hàng ngày còn
tạm được, nhưng đòi hỏi những món cầu kỳ, mất
nhiều thì giờ và tài ba thì Mai đầu hàng vô điều kiện.
Cho nên mỗi khi có dịp họp bạn, các bà các cô xúm nhau nói
chuyện nữ trang, quần áo và nhất là gia chánh, thì Mai từ
từ rút lui, chuồn sang phía nam giới tán góp những chuyện
xây cất hay sửa sang nhà cửa.
Chú chim nhỏ đã bay đi từ lúc nào Mai không để ý,
bây giờ chú trở lại với người bạn lòng của chú. Ðôi
chim tíu tít trong bụi cây một lúc rồi nép sát vào nhau, âu
yếm, rụi đầu rụi mỏ. Mai nghĩ đợi chúng bay đi sẽ đem
ít hạt để gần đó còn bây giờ không nên khua động không
khí êm đềm, vui thích đang bao trùm đôi chim. Nhìn đôi chim
săn sóc nhau, Mai trạnh nghĩ tới mình và lại liếc nhìn người
thiếu phụ trong khung cửa, rồi bất giác nhìn bộ quần áo
thể thao, đôi giầy basket Mai rất thường mặc vì thấy
rất phù hợp với sinh hoạt của mình, mặc dù nàng không
chơi thể thao.
Tuyết vẫn đổ, có lẽ nhiều hơn lúc nãy. Cánh
rừng nhỏ cạnh nhà trụi lá, giơ cành hứng tuyết. Bất
chợt Mai thèm đi ra khỏi nhà. Nàng vội rời khung cửa sổ,
mở tủ tìm áo ấm, khăn quàng len và thay đôi giầy đi
tuyết. Sâu chìa khoá nhà đút trong túi áo, Mai đi vào khu
rừng nhỏ dưới trời tuyết đổ mênh mang.
Rừng cây thật tĩnh mịch. Cành cây trơ xương như cánh
tay gầy giơ lên hứng sương đêm đã kết thành vô vàn
chuỗi kim cương lóng lánh dưới ánh nắng, giờ đây lại
hứng thêm biết bao cụm bông trắng nõn bay lả tả khắp không
gian. Con đường nhỏ trắng xóa dẫn Mai len lỏi trong thế
giới lung linh, huyền ảo. Mai sung sướng quên những tái tê
trong đời mình. Nàng vui sướng thực sự trong trạng thái yên
tĩnh riêng tư.
Còn đúng một tháng nữa, Mai đã định cư ở Pháp
được mười năm. Một nửa thời gian tranh đấu với
những khó khăn ban đầu trong cuộc đời tị nạn. Giờ đây
mọi chuyện vừa tạm ổn định. Một căn nhà nhỏ, một
khoảnh vườn trong quận lỵ nhỏ nhưng nhiều cây xanh.
Những thung lũng thoai thoải giữa những đồi thấp khiến
quận này mang vẻ thơ mộng của Ðà Lạt, nhất là vào
những ngày sương mù.
Có những buổi đi bộ trên những con đường quanh
co, lên xuống, trong sương mờ đặc, thấp thoáng ánh đèn vàng
ấm áp hắt ra từ một quán cà phê nào đó, cổ áo kéo
cao, tay thọc trong túi áo dạ, co ro trong hơi lạnh ban đêm,
Mai có cảm tưởng đang đi trên những con đường cũ,
những con dốc của Ðà Lạt, cùng Bùi đi ăn phở khuya,
vừa ở rạp chiếu bóng ra hay vừa đi hái lộc đêm 30 ở
chùa về. Cảm giác dường như còn chút hương trầm phảng
phất đâu đây. Mai nhớ vạt áo dài nhung xanh sẫm, nhớ
tấm khăn san mỏng choàng tóc, nhớ cả cảm giác cọ sát
của ống quần sa tanh mềm mềm quấn quít bên chân. Những
ngày đó đã qua lâu rồi, nhưng trong tâm hồn Mai hình như
chỉ mới qua đây.
Ðã nhiều năm rồi nước Pháp bị hạn hán. Rồi
chẳng biết vì đâu, hai năm liên tiếp, thiên tai khác lại
đến. Lũ lụt làm tan hoang cả một vùng rộng ở miền Nam.
Bao nhiêu gia đình một sớm một chiều mất tất cả.
Truyền hình cho xem những cảnh thảm khốc của thiên tai làm
Mai nhớ tới cảnh lụt ở miền Trung Việt Nam, những buổi
cùng Bùi đi quyên góp từng ký gạo, từng manh áo, từng
vật dụng hàng ngày, những buổi văn nghệ cứu trợ,
những ngày đi ủy lạo v.v...
Sau bão lụt, chưa kịp khô ráo, vì đã sang thu, đột
nhiên tuyết đổ tơi bời. Giá rét âm độ, mặc dù chưa
phải mùa đông. Trong vòng một tuần lễ đã có 10 người
chết cóng. Nhìn những người vô gia cư, vô nghề nghiệp,
đầu tóc bù rối, râu ria che gần kín mặt, quần chùm áo
đụp, cả gia tài chỉ còn vài chiếc bị rách bẩn thỉu
hay thùng các tông ọp ẹp cáu bẩn, lê thân nặng nề co ro
dưới trời tuyết sương giá buốt, Mai không khỏi xót xa. Nàng
lại nhớ đến những thân gầy khẳng khiu trơ xương,
những hố mắt đen sâu thẳm, nhớ tiếng trẻ thơ khóc khan
hơi từ một mái tôn cong vênh thủng nhiều lỗ, trong bãi rác
ngập ngụa hôi tanh, hừng hực hơi nóng nhảy múa dưới
trời nắng chang chang ở quê hương.
Những thảm cảnh đó tuy ở đâu và thời nào cũng có,
tuy nhiên riêng đất nước mình, Mai chưa hề thấy sút
giảm, mặc dù nhà cầm quyền đã tuyên bố « đổi
mới ». Có thay đổi chăng là trước đây tuy nghèo
đói mà vẫn còn chút liêm sỉ, song bây giờ, không những
vẫn nghèo đói mà lại thêm phần bất lương. Phẩm giá con
người không còn chỗ đúng trong quan niệm sống nữa.
Một tiếng thở dài vọng đến từ thâm tâm. Mai
chợt thấy buồn mênh mang.
Tuyết tiếp tục rơi, mỗi lúc mỗi nhiều. Những kỷ
niệm và suy tư lộn xộn theo chân Mai lang thang trong khu
rừng vắng lặng. Không có tiếng chim ríu rít đang độ mùa
hè hay tiếng trẻ nô đùa vào những buổi sáng nắng ấm.
Cả khu rừng chìm trong làn gió nhẹ thổi bay từng bông
tuyết trắng. Hoàn toàn không có ai vào đây trưa nay. Mai đi
một mình như đi với nỗi cô đơn của đời mình từ ngày
qua Pháp. Những hình ảnh về những ngày sống bên Bùi như
nàng chợt nhớ đến đã đi vào kỷ niệm. Ðó là một
thời đã xa lắm. Nàng vẫn cho rằng mới hôm qua đây vì luôn
luôn nghĩ tới. Sự thật thì Bùi không còn là của nàng
nữa. Bùi vượt biên một mình. Mai kẹt lại chỉ vì mẹ quá
già yếu, không thể đương đầu với sóng gió, với những
gian truân chắc chắn gặp phải trên đường vượt biển.
Hai vợ chồng nghĩ rằng sự hy sinh của mình cho mẹ sẽ
được đền bù xứng đáng bằng sự thành công của Bùi
rồi sau đó bảo lãnh mẹ và vợ sang sau. Hay ít ra cũng là
riêng Mai nghĩ và hy vọng như thế. Mong Bùi không quên tình
quên nghĩa khi sống xa nhau.
Chẳng hiểu khi vượt biên, thành công rồi, thủ tục
bảo lãnh thân nhân ở Pháp, nhất là cho người vợ ra sao mà
Mai đợi gần 10 năm trời ròng rã. Mẹ kiệt quệ, mất
trong cơn bạo bệnh. Những lá thư và gói quà lúc đầu được
tới tấp gửi về, sau thưa dần, rồi cuối cùng bặt luôn.
Cùng lúc Mai nhận tin « bán chính thức », do người
quen cho biết, Bùi đã ăn ở với người khác. Nhưng đồng
thời thủ tục bảo lãnh có hiệu lực sau một thời gian
cứu xét quá lâu. Mai sững sờ, Mai do dự, đã định không
ra đi, không bao giờ muốn nhìn mặt con người phản bội và
nhất là không muốn nhờ vả gì Bùi nữa cả, vì biết theo
luật bảo lãnh, người đứng đơn phải lo toan hết phí
tổn. Nhưng đời sống chung quanh quẫn cùng quá, khiến con
người trở nên hèn mọn. Tự do bị thủ tiêu trắng trợn.
Nhân quyền bị chà đạp ở cái xã hội Mai đã lên án từ
lâu, đã quyết tâm từ bỏ từ lâu. Mai đành cam tâm chấp
nhận sự giúp đỡ của Bùi, coi như mang cái nợ phải trả
đối với Bùi.
Mai bước xuống phi trường Charles de Gaulle, Bùi ra đón.
Nàng muốn trào nước mắt vì tủi buồn, vì giận, vì uất
ức và vì thất vọng. Nhưng Mai cố dằn mọi cay đắng
xuống đáy lòng. Nỗi chán chường xâm chiếm tâm hồn. Cùng
với sự gặp lại Bùi, Mai nhận thấy rõ rệt tình yêu
trong mình vừa tắt ngấm. Thật sự và hoàn toàn. Bùi có
vẻ ngạc nhiên khi thấy Mai thản nhiên đề cập vấn đề
chia tay một cách dễ dàng không ngờ và ngay khi vừa gặp
mặt nhau. Mai sẽ tự lo lấy thân, sẽ không phiền hà gì
tới Bùi. Mai nói một cách rõ ràng để Bùi không còn chút
lo ngại gì hết. Từ ngày đó đến nay, Mai giữ đúng lời
đã hứa.
Chỉ 2 tháng sau khi lo xong thủ tục hành chánh, nhờ
một cơ quan tôn giáo giúp đỡ, Mai có được chỗ ở miễn
phí trong 6 tháng. Ðó là điều tối cần thiết ở xứ lạ.
Ngay sau đó, Mai tìm được việc làm. Thật ra thì Mai đành
nhận bất cứ việc gì miễn tự lo thân càng sớm càng
tốt. Không thể chần chờ, kén chọn.
Ngày Mai lóng ngóng đứng trông gian hàng ngoài trời giá
rét, người run cầm cập vì chưa quen với cái lạnh cắt da
ở xứ này, một nỗi tủi thân tràn gập tâm hồn. Hai mắt
và mũi đỏ lên vì
rét cóng mà phần lớn là vì khóc nhiều. Thương thân
đơn chiếc, tủi cực. Vì là nhân viên mới nên chủ và người
làm cũ có ý dìm. Do vậy đẩy Mai ra đứng trông hàng phiá
ngoài lề đường. Tuy nhiên không phải đứng cả ngày. Có
người thay phiên, mỗi người một buổi. Ít ra cũng còn chút
công bằng. Mỗi ngày có một giờ nghỉ vào buổi trưa.
Những nhân viên ở gần đi về nhà, một hai người ở xa
thì họ rủ nhau đi ăn ở các quán quanh vùng. Riêng mình còn
bỡ ngỡ, chưa quen biết ai, hơn nữa chẳng dám bỏ nhiều
tiền cho bữa ăn trưa, Mai chỉ dám mua một khúc bánh mì.
Mua xong xớ rớ chưa biết đi đâu, ngồi đâu để ăn và để
qua một giờ chờ đợi trong cái lạnh tê người. Nhìn quanh
quất, thấy một nhà thờ nhỏ, cũ kỹ, tường đen thui đầy
bụi thời gian. Mai mừng rỡ, đẩy cửa bước vào. Ánh sáng
chỉ lờ mờ chiếu qua những khung kính nhiều mầu gắn tít
trên cao. Cả nhà thờ vắng lạnh, im lìm không một bóng người.
Lạnh. Nhưng ít lạnh hơn bên ngoài. Bớt gió. Mai ngước nhìn
tượng Chúa trên cây thập tự. Lòng thì thầm. Lạy Chúa,
con là người ngoại đạo, nhưng vẫn biết Chúa là bậc
nhân từ vô bờ bến. Ngày hôm nay vào đây xin tá túc qua cơn
lạnh ngoài kia, mong Chúa thương tình giúp dỡ con trong lúc
khốn khó này. Thì thầm xong, Mai ngồi xuống hàng ghế
cuối cùng, trong bóng tối, khuất sau một cái cột. Ghế dài
bằng gỗ bóng láng. Lạnh. Mai rùng mình. Mai ngồi, vừa run
vừa nhai trệu trạo khúc bánh mì nguộâi, cố thu vén không
để vụn bánh rơi vãi.
Bốn tháng đã qua. Mai không ngờ mình chịu nổi công
việc cực nhọc như thế. Mỗi ngày Mai đều vào ngôi nhà
thờ nhỏ đó để nhai mẩu bánh mì nguộâi và thì thầm
nói chuyện cùng Người. Những suy tư và những ước vọng
của mình Mai thành thật giãi bày, kể lể như với người
bạn thân thiết.
Bỗng một hôm, xem báo, thấy người ta tìm người
giữ két cho một tiệm bán chăn mền, khăn trải giường, khăn
bàn và linh tinh khác. Mai đến xin việc và được nhận
ngay. Ôi mừng không sao kể xiết. Từ nay giã từ những
buổi đứng tê cóng ngoài trời giá rét. Mặc ấm đến đâu
và làm cách gì người vẫn run cầm cập.
Mai đến ăn lần cuối ở ngôi nhà thờ nhỏ. Lạy Chúa,
chẳng hiểu có phải Người đã giúp con không, nhưng con
vẫn xin cảm ơn Người, cảm ơn Người đã cho con vào đây
sống cùng Người trong mấy tháng qua? Kể từ nay xin tạm
biệt nơi này, nhưng con sẽ chẳng bao giờ quên những tháng
ngày vừa qua.
Chủ tiệm mới là người Do Thái. Ông ta kể ông ta đã
thoát chết trong cuộc khủng bố của tụi Ðức Quốc Xã
thời xưa, nên rất thông cảm tình cảnh những người
chạy trốn chế độ độc tài tàn ác. Ông ta tin cẩn giao
hoàn toàn cửa tiệm cho Mai. Mỗi chiều, khi gần đóng cửa,
ông ta đến lấy tiền và hỏi về mức bán cùng những hàng
phải mua vào, thế thôi. Mai tưởng ông ta chỉ thấp thoáng
như thế thì làm sao biết Mai sinh hoạt ra sao trong ngày, lúc
ông ta vắng mặt. Nhưng cuối tháng, ngoài chi phiếu tiền lương
chính thức, Mai thấy trong phong bì một số tiền mặt. Số
tiền tuy nhỏ, song vài câu ghi trong tờ giấy kèm theo làm
Mai xúc động « Xin bà nhận số tiền nhỏ này, gọi là
giúp bà có thêm bữa ăn trưa đầy đủ hơn ».
Mai vừa khóc vừa cười khi đọc dòng chữ đó. Nàng
không ngờ ông ta tinh ý và chu đáo đến thế. Hàng ngày vì
tằn tiện, đến giờ ăn, Mai chỉ chạy sang cafétaria bên
cạnh lấy đúng một dĩa salade đem về tiệm ngồi ăn. Ðĩa
rau chỉ tốn 10 quan. Cách cư xử của ông chủ tiệm khiến
Mai cảm động. Tiếc rằng, sau hai năm buôn bán, phụ ông
ta, ông ta cho biết ý định dẹp cửa hàng để về hưu. Ông
ta quá mỏi mệt, chẳng còn thiết làm giầu thêm nữa. Ông
ta tâm sự rằng từ đây mới là lúc ông ta được sống
thật sự không lo lắng gì nữa hết. Hai vợ chồng sẽ đi
du lịch khắp nơi trước khi quá già, không đi đâu đuợc
nữa.
Mai lại đổi việc. Nhưng được chỗ tốt. Yên thân
cho đến hôm nay. Ngoài giờ đi làm, Mai ít giao thiệp. Một
số rất ít bạn ngày xưa biết vợ chồng Mai và vài người
bạn từ thời con gái. Ngoài ra không còn ai. Vài người
bạn, thấy nàng đơn côi, muốn giới thiệu, nhưng nàng từ
chối. Vài người đàn ông độc thân lân la làm quen. Có người
xỗ xàng cứ tưởng đàn bà đã có một đời chồng, dù
lỡ dở hay góa bụa, hoặc bị...bỏ rơi, như trường hợp
Mai, thì chắc phải dễ dàng. Họ nghĩ một cách trắng
trợn rằng có mất cái gì đâu, cứ việc ăn chơi xả láng,
tội gì mà sống cú rú trong xó nhà, uổng cả một đời.
Những người như thế, Mai cố tránh xa vì tư cách thiếu
lễ độ của họ. Những cái đụng chạm, vuốt tay, vịn
vai gỡ gạc v.v...chỉ khiến Mai thêm khinh bỉ. Nhưng phải
kể cả những người ái mộ âm thầm và đứng đắn. Tuy
nhiên Mai thấy lòng dửng dưng. Tình yêu có lẽ đã tàn
lụi thật sự như khi gặp lại Bùi ở phi trường. Người
thiếu phụ trong khung kính Mai vừa nhìn thấy đã băng qua
những rung động, những xáo trộn của cái tình cảm mang tên
tình yêu lứa đôi, như người ta đã băng qua dòng sông
rộng chập chùng sóng cuốn, với những hào quang quyến rũ
và những khúc xoáy nguy hiểm của dòng nước, mà không hề
có ý định trở lại con đường cũ.
Mai thấy mình thanh thản trong sự cô đơn, mặc dù luôn
luôn sống với biết bao kỷ niệm êm đẹp thời đã qua như
vừa rồi lúc lang thang một mình trong khu rừng vắng vẻ. VÂN HẢI
|